Bệnh Zona – trong dân gian gọi là “giời leo” – là một bệnh do siêu vi rút gây ra, tấn công chủ yếu lên da và các dây thần kinh ở vùng da đó. Mọi lứa tuổi cả nam lẫn nữ đều có thể mắc bệnh. Bệnh khởi phát đột ngột, diễn tiến cấp tính và tự lành, chỉ một số ít trường hợp nặng, xảy ra biến chứng mới cần phải điều trị. Bệnh thường gặp vào mùa xuân – thu và mọi lứa tuổi (trừ trẻ sơ sinh), nhưng xảy ra ở người lớn nhiều hơn (3/4 số bệnh nhân zona trên 45 tuổi), đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch (8-11% bệnh nhân nhiễm HIV bị zona).
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh zona gây ra bởi virus thủy đậu VZV (Varicella zoster virus), loại virus hướng da thần kinh. Bệnh thủy đậu xuất hiện ở người bị nhiễm VZV lần đầu, bệnh zona xuất hiện ở người từng bị nhiễm VZV (VZV tồn tại trong rễ hạch thần kinh), tái hoạt khi có điều kiện thuận lợi như chấn thương thần kinh hoặc thể chất, có thai, điều trị phóng xạ, suy giảm miễn dịch… Nhiều tác giả cho rằng zona là hiện tượng tái hoạt của VZV tiềm ẩn.
Dịch tễ học
Trên 90% người lớn ở Hoa Kỳ có chứng cứ huyết thanh của việc nhiễm VZV và đều có nguy cơ bị zona (Choo PW et al., 1995). Số mắc mới hàng năm của zona vào khoảng 1,5-3 trường hợp/1000 người (Donahue JG, 1995; Ragozzino MW et al., 1982). Tuổi đời tăng là yếu tố nguy cơ chủ chốt của bệnh zona, số trường hợp mắc mới của zona ở những người trên 75 tuổi vượt quá 10 trường hợp/1000 người/năm. Nguy cơ mắc zona trong suốt cuộc sống ước tính là 10-20% (Ragozzino MW et al., 1982).
Các nhà nghiên cứu của Mayo Clinic (Rochester, Minnesota, Hoa Kỳ) đã phân tích lại hồ sơ bệnh án của 1669 bệnh nhân zona từ 22 tuổi ở Olmsted county, Minesota từ năm 1996-2001. Kết quả ghi nhận có 95 bệnh nhân bị zona tái phát, trong đó 87 người tái phát hơn 1 lần. Đa số trường hợp tái phát đều xảy ra ở những người có hệ miễn dịch hoàn chỉnh. Như vậy, tỉ lệ zona tái phát trong gần tám năm theo dõi là 6,2%. Nghiên cứu này cho thấy ngay cả đối với người có hệ miễn dịch hoàn chỉnh nhưng có tiền sử bệnh zona, nguy cơ tái phát bệnh này vẫn xảy ra với một tỉ lệ khá cao, tương đương tỉ lệ mắc zona lần đầu tiên. Do đó, các tác giả khuyến cáo nên chủng ngừa zona cho cả những người đã bị zona. Zona là một bệnh không lây, tuy nhiên người chưa từng bị thủy đậu hay chưa được chủng ngừa thủy đậu có thể bị thủy đậu khi tiếp xúc với bệnh nhân zona. Trẻ em được chủng ngừa thủy đậu đầy đủ lúc nhỏ sẽ không bị thủy đậu, sau đó không lo bị zona về sau. Năm 2006, Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận cho lưu hành Zostavax, thuốc chủng ngừa zona dùng cho những người từ 60 tuổi trở lên.
Triệu chứng lâm sàng
Trước khi tổn thương mọc 2-3 ngày thường có cảm giác báo hiệu như: rát dấm dứt, đau vùng sắp mọc tổn thương kèm theo triệu chứng toàn thân hoặc ít hoặc nhiều như mệt mỏi, đau đầu… Hạch ngoại vi lân cận có thể sưng và đau
- Vị trí: thường khu trú tập trung ở những vị trí đặc biệt và chỉ có một bên của cơ thể dọc theo các đường dây thần kinh, nhưng cá biệt có thể bị cả hai bên hay lan tỏa.
- Tổn thương cơ bản: thường bắt đầu là các mảng đỏ, nề nhẹ, gờ cao hơn mặt da, hình tròn, bầu dục lần lượt nổi dọc dây thần kinh, rải rác hoặc cụm lại thành dải, thành vệt, sau 1-2 giờ trên mảng đỏ xuất hiện những mụn nước chứa dịch trong, căng khó vỡ, các mụn nước tập trung thành cụm (như chùm nho), về sau đục, vỡ, xẹp để lại sẹo (nếu nhiễm khuẩn). Trước hoặc cùng với mọc tổn thương ở da thường nổi hạch sưng và đau ở vùng tương ứng và là dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán.
Các thể lâm sàng
- Zona liên sườn và ngực bụng thường nửa người có khi lan xuống một bên cánh tay (ngực, cánh tay).
- Zona cổ (đám rối cổ nông) và cổ cánh tay có tổn thương ở cổ, vai, mặt ngoài chi trên.
- Zona gáy cổ: có tổn thương ở gáy, da đầu, vành tai.
- Zona mắt (nhánh mắt của dây thần kinh III) gây tổn thương ở trán, mi trên dọc trong mắt, cánh mũi, kể cả niêm mạc mũi… đặc biệt nghiêm trọng có thể gây biến chứng mắt từ viêm màng tiếp hợp gây chảy nước mắt đến viêm giác mạc, viêm mống mắt dẫn đến loét giác mạc, rối loạn đồng tử, teo gai… Zona này rất đau có thể để lại sẹo quanh hốc mắt dai dẳng.
- Zona hàm trên và dưới ngoài vùng da tương ứng còn có cả tổn thương niêm mạc miệng, họng.
- Zona hạch gối (Ramsay Hant) có tổn thương ở vành tai, kèm theo rối loạn cảm giác 2/3 trước lưỡi, rối loạn nghe, đôi khi liệt mặt một bên, nhức và đau nhưng thoáng qua.
- Zona đầu: tổn thương nhiều dây thần kinh sọ não, hạch não tủy, có khi tổn thương cả não.
- Đôi khi gặp zona hông, bụng, sinh dục, bẹn, xương cùng, đùi, cánh tay.
- Đối với thần kinh sọ não: hay bị nhất là ở dây III.
Chẩn đoán
Biểu hiện da của Zona đủ rõ để có chẩn đoán lâm sàng thường là chính xác. Tuy nhiên vị trí hoặc hình dạng của các tổn thương ngoài da có thể không điển hình (đặc biệt ở những bệnh nhân có hệ miễn dịch bị suy giảm), khi đó cần có sự xác định của các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Có thể nuôi cấy virus, nhưng VZV yếu và tương đối khó hồi phục từ các mẫu bệnh phẩm của những tổn thương ở da. Định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp nhạy cảm hơn nuôi cấy virus, chi phí thấp hơn và có thời gian trả lời kết quả xét nghiệm nhanh hơn. Giống như nuôi cấy virus, định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể phân biệt giữa nhiễm virus Herpes Simplex và nhiễm virus Varicella Zoster. Kỹ thuật phản ứng khuếch đại chuỗi gen bằng enzym polymerase có ích trong việc tìm DNA của VZV trong dịch và các mô.
Biến chứng
- Đau dây thần kinh sau zona (được định nghĩa là đau tồn tại trên 30 ngày sau khi nổi phát ban hoặc sau khi liền sẹo): là biến chứng đáng sợ nhất đối với những bệnh nhân có chức năng miễn dịch đầy đủ. Tỉ lệ khởi phát của đau dây thần kinh sau zona từ 8-70% và tăng khi tuổi đời càng cao. Bên trong vùng khoanh da bị tổn thương ngoài đau dây thần kinh ra, bệnh nhân còn có nhiều bất thường về cảm giác, ví dụ như dị giác (một thể tăng cảm giác trong đó một kích thích không đau được nhận biết như đau)
- Các biến chứng khác: viêm não, viêm tủy, liệt dây thần kinh sọ não, dây thần kinh ngoại biên, hội chứng liệt nhẹ nửa người phía đối diện muộn, hoại tử võng mạc cấp tính.
Điều trị
Mục tiêu: đẩy nhanh việc liền sẹo, hạn chế độ nặng và thời gian kéo dài đau cấp tính và mạn tính, giảm biến chứng. Ở những bệnh nhân bị tổn thương miễn dịch, thêm một mục tiêu điều trị nữa là giảm nguy cơ lan tỏa virus Varicella Zoster.
Tùy thuộc vào giai đoạn, mức độ thể trạng người bệnh mà dùng thuốc cho thích hợp
- Tại chỗ: hồ nước, dung dịch xanh methylen, cestellani timethyl nếu có nhiễm khuẩn, mỡ kháng sinh…
- Toàn thân:
+ Liệu pháp kháng virus
Tại Mỹ có 3 dược chất được chấp thuận sử dụng trong điều trị zona là acyclovir, valacyclovir, famciclovir. Liệu pháp kháng virus đường uống khuyến nghị cho zona ở người lớn có chức năng miễn dịch và chức năng thận bình thường
Liều dùng: Acyclovir 800 mg mỗi 4 giờ (5 lần mỗi ngày) trong 7-10 ngày
Famciclovir 500 mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày
Valacyclovir 1000 mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày
+ Corticosteroid
Sử dụng kết hợp corticosteroid với các thuốc kháng virus làm tăng tốc độ lành da, giảm nhẹ cơn đau cấp tính, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên liệu pháp corticosteroid không nên sử dụng ở những bệnh nhân có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi độc tính do corticosteroid (ví dụ những BN tiểu đường hoặc viêm dạ dày).
+ Kháng sinh nếu có bội nhiễm
+ Sinh tố nhóm B liều cao
+ Có thể cần thuốc chẹn giao cảm để làm dịu tạm thời cơn đau nặng. Với các cơn đau dai dẳng, các thuốc giảm đau trung ương (opioid) tác dụng dài, giải phóng có kiểm soát (uống hoặc dán lên da) được ưa chuộng hơn.