Tỉ lệ cao bệnh nhân viêm gan C tuýp 2 và 3 đáp ứng với sofosbuvir và ribavirin
Sofosbuvir của Gilead có tỉ lệ chữa khỏi cao khi được phối hợp với ribavirin để điều trị viêm gan C tuýp 2 và 3. Người đại diện cho công ty dược phẩm này vừa cung cấp thông tin về thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 VALENCE tại hội nghị thường niên của hiệp hội nghiên cứu gan Hoa Kỳ (AASLD) tại Washington DC.
73 bệnh nhân tuýp 2 dùng hoạt chất ức chế nucleotid polymerase sofosbuvir và ribavirin trong vòng 12 tuần, và 250 bệnh nhân tuýp 3 dùng liệu pháp trên trong vòng 24 tuần. Khoảng 20% số bệnh nhân bị xơ gan.
93% bệnh nhân tuýp 2 và 85% bệnh nhân tuýp 3 đạt đáp ứng virus duy trì 12 tuần sau khi hoàn thành điều trị (đáp ứng virus duy trì được coi là chữa khỏi).
Trong số các bệnh nhân tuýp 2 chưa từng được điều trị, 97% (29/30) trường hợp không bị xơ gan và 100% (2/2) trường hợp xơ gan được chữa khỏi; đối với nhóm đã được điều trị, 91% (30/33) trường hợp không xơ gan và 88% (7/8) trường hợp xơ gan được chữa khỏi.
Trong nhóm bệnh nhân tuýp 3, ở nhóm chưa từng được điều trị, 94% (86/92) trường hợp không xơ gan và 92% (12/13) trường hợp xơ gan được chữa khỏi; ở nhóm đã từng được điều trị, 87% (87/100) trường hợp không xơ gan và 60% (27/45) trường hợp xơ gan được chữa khỏi.
Tác dụng phụ phổ biến nhất của thuốc quan sát được là đau đầu, mệt mỏi, ngứa, suy yếu, nôn mửa và mất ngủ.
Phác đồ phối hợp 3 thuốc của Bristol-Myers Squibb (BMS) chữa được trên 90% bệnh nhân viêm gan C tuýp 1a và 1b
Sau 12 tuần điều trị, phác đồ 3 thuốc daclatasvir, asunaprevir và BMS-791325 (‘325) của BMS chữa được 92% bệnh nhân viêm gan C tuýp 1a hoặc 1b chưa từng được điều trị. Gregory Everson, tiến sĩ y học của Khoa y đại học Colorado Anschutz Medical Campus ở Aurora, Colorado, trình bày các kết quả từ phase IIb của thử nghiệm lâm sàng tại Hội nghị thường niên lần thứ 64 của Hiệp hội nghiên cứu các bệnh về gan Hoa Kỳ (AASLD) tại Washington DC.
Nghiên cứu được thực hiện trên 2 nhóm, mỗi nhóm được điều trị trong 12 tuần: 80 người nhóm 1 dùng thuốc ức chế phức hệ nhân lên NS5A daclatasvir, thuốc ức chế protease NS3 asunaprevir và 75 mg chất ức chế NS5B polymerase ‘325, 2 lần mỗi ngày; 86 người nhóm 2 dùng phác đồ tương tự, nhưng dùng 100 mg ‘325. Khoảng 10% số người tham gia bị xơ gan.
Tổng cộng có 91,7% bệnh nhân trong nhóm dùng liều cao đạt đáp ứng virus duy trì 12 tuần sau khi kết thúc điều trị (đáp ứng virus được coi là chữa khỏi), trong khi đó ở nhóm 1 là 92,2 %.
Phác đồ điều trị này nói chung dung nạp trên bệnh nhân tốt. Có 2 tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra ở nhóm 2 và 1 ở nhóm dùng liều thấp.
Phác đồ điều trị viêm gan C của Boehringer Ingelheim (BI) đạt kết quả ban đầu hứa hẹn
Kết quả ban đầu của thử nghiệm lâm sàng phối hợp 3 thuốc faldaprevir, deleobuvir và Presidio ‘s PPI-668, có hoặc không có ribavirin rất hứa hẹn trong điều trị viêm gan C tuýp 1a. Người đại diện của BI đã trình bày các kết quả của phase 2 nghiên cứu này tại Hội nghị thường niên của Hội nghiên cứu các bệnh gan Hoa Kỳ (AASLD) lần thứ 64 tại Washington DC.
Nghiên cứu gồm 3 nhóm bệnh nhân, mỗi nhóm 12 người. Tất cả các bệnh nhân dùng 200 mg, ngày 1 lần chất ức chế NS5A PPI-668 và 1200 mg, ngày 1 lần chất ức chế polymerase deleobuvir. Nhóm 1 dùng thêm 600 mg, ngày 2 lần chất ức chế protease faldaprevir và ribavirin với liều theo cân nặng. Nhóm 2 dùng thêm ribavirin. Nhóm 3 dùng thêm faldaprevir.
Trước tuần thứ 4 của quá trình điều trị 12 tuần, 97% (35/36) bệnh nhân giảm tải lượng virus. 17 bệnh nhân hoàn thành điều trị đều có tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện. 13 bệnh nhân hoàn thành điều trị 12 tuần hoặc đến thăm khám 4 tuần sau khi kết thúc điều trị đạt đáp ứng virus duy trì (đáp ứng được coi là chữa khỏi).
Các tác dụng phụ bao gồm phát ban từ nhẹ đến vừa và rối loạn tiêu hóa. 1 bệnh nhân phải ngừng điều trị vì tác dụng phụ. Bệnh nhân này có tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện ở tuần thứ 9 và duy trì tình trạng này 3 tuần sau khi kết thúc điều trị.