Chứng rối loạn thần kinh tim thuộc phạm vi chứng chính xung của y học cổ truyền. Có 3 thể là: tâm huyết hư, âm hư hỏa vượng và thể dương hư. Sau đây là một số bài thuốc chữa chứng bệnh này theo từng thể bệnh.
Rau má
Thể tâm huyết hư:
Hay gặp ở bệnh nhân bị thiếu máu, suy nhược cơ thể do bệnh tật, phụ nữ sau sinh đẻ, dinh dưỡng kém…). Biểu hiện: tim đập nhanh, hồi hộp, ngủ ít, trằn trọc, hay nằm mê, chất lưỡi đỏ, mạch tế nhược. Phép chữa: dưỡng huyết, kiện tỳ, an thần.
Dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: bố chính sâm 20g; củ mài, rau má, long nhãn, hạt sen, hà thủ ô, quả dâu chín mỗi vị 12g; táo nhân 8g; bá tử nhân 8g
Bài 2: Quy tỳ thang: đẳng sâm, bạch truật, hoàng kỳ mỗi vị 12g; táo nhân, long nhãn, đương quy, viễn chí, phục linh, đại táo mỗi vị 8g; mộc hương 6g.
Hoặc bài Hắc quy tỳ: các vị như trên thêm thục địa 16g.
Các bài trên sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Thể âm hư hỏa vượng:
Hay gặp ở những bệnh nhân bị rối loạn thần kinh chức năng, tăng huyết áp, rối loạn tiền mãn kinh… Biểu hiện: tim đập hồi hộp, chóng mặt, nhức đầu, hoa mắt, ù tai, mặt đỏ, triều nhiệt, lòng bàn tay bàn chân nóng, nước tiểu đỏ, đại tiện táo kết, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, họng khô, mạch tế sác. Phép chữa: tư âm giáng hỏa. Dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: thiên môn, mạch môn, thạch hộc, thục địa, hạt sen, huyền sâm, bá tử nhân, bố chính sâm, hà thủ ô mỗi vị 12g; táo nhân 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Bài 2: đan sâm, sa sâm, thục địa, long nhãn, thiên môn, mạch môn, đẳng sâm mỗi vị 12g; bá tử nhân, viễn chí, toan táo nhân mỗi vị 8g; ngũ vị tử 6g. Sắc uống ngày 1 thang hoặc tán bột làm hoàn uống 20 – 30g một ngày.
– Nếu âm hư dương xung thêm các thuốc bình can tiềm dương như câu đằng, thiên ma, long cốt, mẫu lệ, trân châu mẫu (vỏ trai), thạch quyết minh.
Thể dương hư: (âm dương hư, thận dương hư, tỳ dương hư):
Hay gặp ở người già suy nhược thần kinh thể giảm hưng phấn, xơ vữa động mạch. Biểu hiện: tim đập hồi hộp, thổn thức, đau lưng mỏi gối, chân tay lạnh, sợ lạnh, ăn kém, ngủ ít, tiểu tiện trong dài, tiểu nhiều lần, mạch trầm tế nhược hay huyền tế. Phép chữa: ôn dương an thần. Dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: thục địa 12g, hoài sơn 16g, trạch tả 8g, liên nhục 8g, phụ tử chế 8g, nhục quế 7g, hạt sen 12g, táo nhân 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Bài 2: Bát vị quế phụ: đan bì 9g, thục địa 24g, bạch linh 9g, sơn thù 12g, trạch tả 9g, hoài sơn 12g, phụ tử chế 8g, nhục quế 6g. Luyện mật làm hoàn ngày uống từ 8-12g chia 2-3 lần, uống với nước sôi để nguội hoặc nước muối nhạt.
– Nếu do tỳ dương hư đàm ẩm nghịch lên, biểu hiện mặt trắng bệch, tiểu tiện ít, mạch trầm khẩn. Phép trị là thông dương tiềm âm. Dùng bài: phục linh 12g, quế chi 6g, long nhãn 12g, đẳng sâm 12g, cam thảo 6g, đương quy 12g, gừng 4g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
– Người bệnh rối loạn thần kinh tim do sang chấn tinh thần đột ngột, lo sợ, hốt hoảng, buồn, ăn không ngon, ngủ ít, hay bị bóng đè, mạch huyền hoạt. Phép trị là phải an thần trấn kinh. Dùng một trong các bài:
Bài 1: bán hạ chế 8g, trần bì 8g, gừng 6g, chỉ thực 8g, trúc nhự 6g, cam thảo 12g.
Bài 2: quế chi 6g, bạch thược 10g, mẫu lệ 16g, cam thảo 6g, long cốt 20g, gừng 4g, đại táo 4g.
Các bài trên sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Theo SKDS