Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn, sự phản ứng của cơ thể tự bảo vệ một cách bất thường, phản ứng chống lại chính mình. Bản chất của bệnh sưng khớp, biến dạng khớp do phá hủy sụn khớp và xương. Bệnh khởi phát tổn thương các khớp cổ tay, khớp bàn ngón, khớp gối. Sau đó gây tổn thương các khớp cột sống cổ, khớp vai, khớp háng, khớp cổ chân. Bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam, đặc biệt quanh tuổi tiền mãn kinh.
Dấu hiệu nào nghĩ đến viêm khớp dạng thấp?
Bệnh biểu hiện đau và sưng khớp liên quan đến ít nhất 3 nhóm khớp, tổn thương đối xứng: khớp cổ tay, khớp bàn ngón, khớp ngón gần, khớp gối và khớp cổ chân. Viêm khớp tồn tại dai dẳng, bệnh mạn tính và có những đợt tiến triển. Buổi sáng khi thức dậy người bệnh khó khăn rời khỏi giường và kèm theo sự mệt mỏi. Chụp Xquang khớp cổ tay, có thể thấy hình ảnh bào mòn và hẹp khe khớp cổ tay. Xét nghiệm máu có thể thấy tốc độ máu lắng tăng và phản ứng proteine C tăng (CRP), yếu tố thấp (RF) tăng và tăng kháng thể kháng peptide citrique citruline (anti-CCP).
Các yếu tố có vai trò đến sự phát triển bệnh viêm khớp dạng thấp bao gồm: Yếu tố di truyền, yếu tố hormon (testosteron, cortisol, prolactine, oestradiol), virus, yếu tố tinh thần và khói thuốc lá.
Cách thức điều trị
Điều trị cơ bản cổ điển, điều trị sinh học tác động trên cytokine tiền viêm, điều trị sinh học tác động trên tế bào lymphocyte T và tế bào lymphocyte B. Thuốc sử dụng đường uống, đường dưới da, đường tĩnh mạch.
Viêm khớp dạng thấp là bệnh ảnh hưởng rất nhiều đến chức năng vận động của cơ khớp. Bệnh tiến triển phá hủy sụn và xương lâu ngày dẫn đến teo cơ biến dạng khớp. Chẩn đoán bệnh sớm và điều trị sớm hạn chế các tổn thương sụn nặng nề. Bệnh thường phải điều trị suốt đời, nhiều người bệnh tự dùng thuốc điều trị hoặc điều trị không đúng cách làm cho sụn khớp bị phá hủy nhiều và ảnh hưởng đến chất lượng sống.
Các tế bào lymphocyte B và lymphocyte T trong dịch khớp kết gắn với kháng nguyên, sinh ra các tự kháng thể và cytokine tiền viêm như TNF alpha, interleukine-6, interleukine-1 và dẫn đến viêm màng hoạt dịch gây phá hủy sụn khớp và xương.
Ở nước ta, nhiều năm nay điều trị viêm khớp dạng thấp căn bản tấn công làm ngừng giai đoạn viêm, chưa tác động vào mắt xích của tế bào đích và các cytokine tiền viêm. Nhiều bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đáp ứng kém với điều trị cơ bản với methotrexat và corticoid. Đối với những bệnh nhân này lựa chọn điều trị thuốc sinh học là một giải pháp mới.
Trên thế giới, điều trị sinh học infliximab (remicadeR), etanercept (enbrelR), được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ FDA cho phép để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp. Bệnh nhân viêm khớp dạng thấp sau khi điều trị với methotrexate mà có sự kháng thuốc hay nói cách khác không đáp ứng với methotrexate, lựa chọn điều trị sinh học là hướng mới cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thể nặng và không có chống chỉ định với nhóm thuốc sinh học.
Kháng TNF alpha là gì?
Các chế phẩm sinh học kháng TNFα được Hội khớp học Pháp và Hội khớp học Anh khuyến cáo sử dụng trong điều trị viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến, viêm cột sống dính khớp vào tháng 12 năm 2005. Có 3 kháng TNFα phân ra 2 loại: kháng thể đơn dòng và thụ thể hòa tan TNFα. Kháng TNFα chỉ định ở thể nặng, gồm có infliximab, etanercept, adalimumab.
Chống chỉ định sử dụng kháng TN Fα trong trường hợp phụ nữ có thai, bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn hoặc bệnh nhân viêm khớp do nhiễm khuẩn, bệnh nhân có suy tim xung huyết giai đoạn 3 hoặc 4.
Mỗi loại thuốc kháng TNFα có các cơ chế tác động khác nhau làm giảm sản sinh TNFα (thalidomide). Trung hoà các TNFα bằng các kháng thể đơn dòng (infliximab), các thụ thể hoà tan (etanercept). Ức chế TNFα bằng các đối kháng.
Cytokine TNFα là tác nhân khởi phát quá trình viêm, vì vậy sử dụng kháng TNFα có tác dụng nhanh đến tình trạng viêm khớp cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp thể tiến triển nặng và không đáp ứng với thuốc chống viêm và điều trị methotrexate.
Hiện nay ở nước ta, bênh nhân viêm khớp dạng thấp và bệnh nhân viêm cột sống dính khớp thể nặng hoặc không đáp ứng với điều trị cơ bản trước đây, đã có cơ hội tiếp cận với nhóm thuốc điều trị sinh học, tuy nhiên bệnh nhân cũng gặp một khó khăn do giá thành điều trị. Bệnh nhân điều trị kháng TNFα (enbrel 25 mg), thời gian điều trị cần thiết 3 tháng, điều trị tại bệnh viện. Bệnh nhân trước khi điều trị kháng TNFα được làm các bilan về bệnh lao và khám tim mạch. Trong quá trình điều trị, bác sĩ đánh giá mức độ đáp ứng của thuốc theo các chỉ số bệnh hoạt động, chỉ số DAS 28 (với bệnh viêm khớp dạng thấp) hoặc chỉ số BASDAI (với bệnh viêm cột sống dính khớp). Bệnh nhân được theo dõi từ 3 tháng đến 6 tháng về lâm sàng và xét nghiệm máu.
TS.BS. Mai Thị Minh Tâm (Khoa Cơ Xương Khớp, Bệnh viện E)
Theo Sức Khỏe Đời Sống