Hình ảnh thuốc Neupogen
HOẠT CHẤT:
- Filgrastim
CHỈ ĐỊNH:
Neupogen được chỉ định để rút ngắn thời gian bị giảm bạch cầu nặng và các biến chứng của nó ở các bệnh nhân :
- Được dùng hóa trị liệu độc tế bào, là những loại thường gây ra giảm bạch cầu đa nhân trung tính có sốt.
- Được điều trị ức chế tủy chuẩn bị cho ghép tủy.
- Dùng lâu dài Neupogen làm tăng số bạch cầu đa nhân trung tính, làm giảm tần suất cũng như thời gian các giai đoạn nhiễm trùng trên các bệnh nhân bị :
- Giảm bạch cầu đa nhân trung tính bẩm sinh.
- Giảm bạch cầu chu kỳ.
- Giảm bạch cầu vô căn, có số bạch cầu đa nhân trung tính <= 0,5 x 109/l và có tiền sử nhiễm trùng nặng hoặc tái phát.
LIỀU DÙNG:
Ở những bệnh nhân đã hóa trị liệu vì một bệnh ác tính không do tủy, liều khuyến cáo của Neupogen là 0,5 MUI (5mg/kg tương ứng với 16,6 ml dung dịch tiêm) tiêm một lần trong ngày.
Với một bệnh nhân 60 kg cần dùng 1 lọ Neupogen 30 MUI.
Ở những bệnh nhân được điều trị bằng hóa trị độc tế bào và ghép tủy tự thân, liều khởi đầu của Neupogen được đề nghị là 1 MUI (10 mg/kg/ngày) truyền dưới da liên tục trong 24 giờ hoặc 1 MUI (10 mg/kg/ngày) truyền tĩnh mạch liên tục trong 30 phút hoặc trong 24 giờ. Neupogen phải được pha loãng trong 20 ml dịch truyền glucose 5%.
Ở những bệnh nhân bị giảm bạch cầu nặng mãn tính : Liều khởi đầu : Giảm bạch cầu bẩm sinh : I,2 MUI (12 mg)/ngày, chia làm một hoặc nhiều lần. Giảm bạch cầu tự phát hoặc có chu kỳ : 0,5 MUI (5 mg)/kg/ngày, chia làm một hoặc nhiều lần.
Điều chỉnh liều : Liều phải được xác định cho từng bệnh nhân và đảm bảo duy trì số lượng bạch cầu đa nhân trung tính tối thiểu là 1,5 x 10 9/l. Dùng liều hàng ngày trong thời gian dài được chỉ định để đạt được số lượng bạch cầu đa nhân trung tính ở mức cần thiết. Có thể tăng liều gấp đi nếu sau 2 tuần điều trị mà số lượng bạch cầu đa nhân trung tính vẫn không đạt đến 1,5 x 10 9, và phải giảm nửa liều nếu số lượng bạch cầu hạt tăng quá 10 x 10 9/l. Cần phải tăng nhanh liều ở những bệnh nhân có những nhiễm trùng nặng. Chỉ dùng những liều vượt quá 14,5 MUI (145 mg/kg/ngày) khi đã biết chắc chắn rằng bệnh nhân có thể dung nạp được.
CÁCH DÙNG:
Neupogen có thể đưa vào cơ thể bằng đường truyền dưới da hoặc truyền tĩnh mạch trong thời gian ngắn, pha loãng trong Glucose 5% truyền trên 30 phút. Liều đầu tiên của Neupogen không nên cho sớm hơn 24 giờ sau khi kết thúc hóa trị độc tế bào.
Liều hằng ngày của Neupogen nên được tiếp tục cho đến khi qua được giai đoạn giảm bạch cầu đa nhân trung tính thấp nhất, và số bạch cầu đa nhân trung tính đạt được mức bình thường. Thời gian cần thiết cho điều trị có thể lên đến 14 ngày tùy theo loại, liều lượng và phác đồ hóa trị độc tế bào được dùng.
Ở những bệnh nhân được điều trị hóa trị độc tế bào, sự gia tăng tạm thời số bạch cầu đa nhân trung tính thường xảy ra 1-2 ngày sau khi bắt đầu dùng Neupogen. Tuy nhiên, để có đáp ứng với trị liệu kéo dài hơn, nên tiếp tục điều trị bằng Neupogen cho đến khi qua được giai đoạn bạch cầu giảm tối đa hoặc đến khi số bạch cầu đa nhân trung tính về mức bình thường.
Ở bệnh nhân được hóa trị độc tế bào và ghép tủy tự thân : Neupogen có thể được tiêm dưới da hoặc truyền tĩnh mạch, pha loãng trong 20-50 ml dung dịch Glucose 5%. Liều đầu của Neupogen không nên cho trước 24 giờ sau khi hóa trị độc tế bào. Tính hiệu quả và an toàn của Neupogen được dùng hơn 28 ngày chưa được xác định.
TÁC DỤNG PHỤ:
Dùng Neupogen ở liều đề nghị thường gây ra đau cơ xương. Triệu chứng này thường từ nhẹ đến trung bình nhưng đôi khi nặng, và thường được kiểm soát bằng các thuốc giảm đau tiêu chuẩn.
Các tác dụng phụ ít gặp hơn gồm bất thường bài niệu (chủ yếu là khó tiểu nhẹ đến trung bình). Đôi khi có giảm huyết áp thoáng qua, không cần điều trị lâm sàng. Tăng lactate dehydrogenase, phosphatase kiềm, acide urique máu và gamma glutamyl transpeptidase có thể xảy ra nhưng thường từ nhẹ đến trung bình, phụ thuộc liều lượng và có thể phục hồi. Số bạch cầu trên 100 x 109 xảy ra ở khoảng 5% số bệnh nhân điều trị Neupogen ở liều > 0,3 MUI/kg/ngày (3mg/kg/ngày). Tuy nhiên không ghi nhận tác dụng bất lợi nào liên quan trực tiếp đến mức độ tăng bạch cầu này.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH:
- Neupogen không nên dùng ở những bệnh nhân bị dị ứng với sản phẩm hoặc những thành phần của thuốc.
THẬN TRỌNG:
- Tăng sinh tế bào ác tính : G-CSF có thể thúc đẩy sự tăng trưởng các tế bào tủy in vitro và tác dụng tương tự trên một số tế bào ngoài tủy in vitro.
- Tính an toàn và hiệu quả của Neupogen ở những bệnh nhân loạn sản tủy, bệnh bạch cầu cấp dòng tủy hoặc bệnh bạch cầu mạn dòng tủy chưa được xác định. Do đó, vì khả năng tăng trưởng các khối u, cần thận trọng khi dùng Neupogen trên bất kỳ bệnh lý ác tính nào có liên quan đến tế bào tủy.
- Theo dõi mật độ của xương nên thực hiện ở những bệnh nhân có bệnh lý xương gây loãng xương và được điều trị Neupogen liên tục trên 6 tháng. Chưa có các nghiên cứu về Neupogen trên những bệnh nhân có giảm nặng chức năng gan, thận, và do đó không nên chỉ định Neupogen cho những bệnh nhân này.
- Tác dụng của Neupogen ở những bệnh nhân bị giảm đáng kể các tế bào đầu dòng tủy xương chưa được nghiên cứu.
- Neupogen đầu tiên sẽ tác động lên các tế bào đầu dòng của bạch cầu đa nhân trung tính, qua đó làm tăng số bạch cầu đa nhân trung tính. Do đó ở những bệnh nhân bị giảm các tế bào đầu dòng (chẳng hạn những người được điều trị bằng xạ trị hay hóa trị diện rộng) đáp ứng tăng bạch cầu đa nhân trung tính có thể bị giảm.
- Ở phụ nữ có thai khả năng nguy cơ lên thai khi dùng Neupogen phải được cân nhắc tùy theo lợi ích của việc điều trị.
- Chưa rõ Neupogen có được bài tiết qua sữa người hay không. Neupogen không được khuyến cáo ở những phụ nữ cho con bú.
TƯƠNG TÁC THUỐC:
- Tính an toàn và hiệu quả của Neupogen cho cùng một ngày với hóa trị độc tế bào ức chế tủy chưa được xác định. Vì tính nhạy cảm của các tế bào tủy phân chia nhanh với thuốc hóa trị độc tế bào ức chế tủy, không nên sử dụng Neupogen trong giai đoạn từ 24 giờ trước đến 24 giờ sau khi hóa trị. Chưa có các thử nghiệm lâm sàng thăm dò tương tác có thể có giữa Neupogen với các yếu tố tăng trưởng tạo máu và các cytokine khác.
- Bất tương hợp chủ yếu : Neupogen không nên hòa loãng với dung dịch nước muối. Về tính tương hợp của Neupogen với các chất liệu plastic sau khi pha loãng để truyền, xin xem phương pháp dùng thuốc trong phần liều lượng và cách dùng.