Theo thống kê, con số gần đúng cảnh báo cho những ca bệnh viêm gan B trên thế giới đã xấp xỉ 450 triệu người. Trong thời gian gần đây, con số này tăng lên ở mức báo động. Rõ ràng, việc nghiên cứu, tìm hiểu, để phát hiện sớm và điều trị hiệu quả viêm gan B là vô cùng cần thiết. Ở bài viết này, chúng tôi xin đề cập các kiến thức liên quan đến quá trình điều trị viêm gan B, khi nào bắt đầu, hướng điều trị và khi nào thì ngưng điều trị cho người bệnh viêm gan B. Mời bạn đọc tham khảo.
Đã có nhiều tiến bộ trong việc điều trị viêm gan B trong thời gian gần đây. Tuy nhiên,các phương pháp điều trị hiện nay điều không tiêu diệt được hoàn toàn virus viêm gan B (HBV). Vì vậy, hầu hết các bệnh nhân cần thời gian điều trị dài và một số thì phải điều trị suốt đời để ức chế sự phát triển của virus.
Khi nào bắt đầu điều trị?
Ngày nay con người đã có những hiểu biết hơn về HBV và những giai đoạn phát triển của bệnh viêm gan do virus, khi một người nhiễm HBV thì quá trình sẽ tiến triển tới viêm gan mạn tính chỉ khác nhau về thời gian ủ bệnh mà thôi, do vậy mà có những người không phải điều trị bằng thuốc ngay và câu hỏi đặt ra là khi nào thì bắt đầu điều trị bằng thuốc. việc chỉ định sử dụng thuốc cần có một số thông tin như:xét nghiệm đánh giá tình trạng sao chép của HBV, kháng thể cho thấy HBV đang hoạt động, giai đoạn của bệnh gan tại thời điểm chẩn đoán và tiên lượng nguy cơ xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) cho bệnh nhân.
Vì vậy, việc điều trị nên được bắt đầu ở những bệnh nhân có HBV hoạt động hoặc những người được tiên lượng có nguy cơ cao bị xơ gan hoặc ung thư gan trong tương lai gần. Mặt khác, việc điều trị có thể bị hoãn ở những bệnh nhân như thế nào? Nó bao gồm: bệnh viêm gan giai đoạn đầu và được tiên lượng sẽ có ít nguy cơ xơ gan và ung thư gan. Những bệnh nhân này nên tiếp tục được theo dõi và điều trị bắt đầu khi những dấu hiệu tiến triển phát sinh.
Trước đây để chỉ định một người sử dụng thuốc thì dựa vào xét nghiệm đo hoạt độ enzym ở gan (ALT) và xét nghiệm giải phẫu bệnh đánh giá xem có tình trạng viêm hoặc xơ hóa hay không hoặc triệu chứng lâm sàng của xơ gan. Gần đây, có ý kiến cho rằng việc điều trị cần phải dựa vào nồng độ virus. Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ virus tăng cao kéo dài vài thập kỷ có liên quan với tăng nguy cơ xơ gan và ung thư gan.
Xét nghiệm máu đánh giá hoạt độ ALT
Do vậy quyết định điều trị sử dụng thuốc kháng virus ở bệnh nhân viêm gan B nên xem xét các đặc điểm lâm sàng, hoạt độ ALT, nồng độ HBV DNA, và giải phẫu mô học ở gan.
Chỉ định điều trị còng tùy thuộc theo độ tuổi của bệnh nhân, trạng thái kháng nguyên e (HBeAg), để điều trị giảm nguy cơ lây nhiễm sang con ở những người phụ nữ trong độ tuổi sinh sản có nhiễm HBV, do yêu cầu nghề nghiệp hoặc nếu điều kiện của bệnh nhân cho phép.
Bởi vì hiện tại thì phương pháp điều trị chỉ là ngăn chặn sự phát triển HBV nhưng không tiêu diệt virus, nên hầu hết các bệnh nhân cần phải điều trị trong thời gian dài và thường xuyên, kèm theo với các rủi ro liên quan đến kháng thuốc, tác dụng phụ, và chi phí điều trị. Vì vậy, khi quyết định bắt đầu điều trị thì cũng phải dự kiến thời gian điều trị và khả năng ức chế virus sau một quá trình điều trị.
Phương pháp điều trị?
Có 7 loại thuốc kháng virus (FDA) đã được phê duyệt để điều trị viêm gan B gồm: 2 thuốc tác động vào hệ miễn dịch là interferon (Roferon A , Intron A và pegylated ( Pegasys và PegIntron) và 5 thuốc giống nucleoside / nucleotide là thuốc kháng virus : lamivudine [Epivir-HBV] , adefovir [Hepsera] , entecavir [Baraclude] , telbivudine [Tyzeka , và tenofovir Viread .
Quyết định điều trị là sự lựa chọn giữa interferon với nucleoside / nucleotide. Interferon có lợi thế là nó được sử dụng trong một thời gian không dài, chưa cáo báo cáo về thuốc này liên quan tới chủng virus đột biến kháng thuốc cụ thể, tuy nhiên người sử dụng thuốc Interferon phải được điều trị nội trú trong bệnh viện [bằng cách tiêm],với nhiều tác dụng phụ và chống chỉ định ở bệnh nhân xơ gan mất bù
Interferon sử dụng đường tiêm
Thuốc kháng virus giống Nucleoside / nucleotide có lợi thế là :sử dụng bằng đường uống và có ít tác dụng phụ hơn, nhưng phải sử dụng thuốc trong nhiều năm và có thể dẫn đến việc phát sinh các chủng virus đột biến kháng thuốc. Trong số các thuốc trong nhóm này thì entecavir, telbivudine và tenofovir có hoạt tính kháng virus mạnh hơn..
Thuốc kháng virus sử dụng đường uống
Lựa chọn thuốc để điều trị ban đầu là rất quan trọng nhằm đạt được hiệu quả điều trị cũng như tránh phát sinh các chủng kháng thuốc.
Khi nào thì ngừng điều trị?
Nói chung, nên tiếp tục điều trị cho đến khi bệnh nhân “sạch” virus trong các xét nghiệm. Ngừng điều trị có thể gây nên viêm gan virus tái phát, viêm gan bùng phát, và xơ gan mất bù. Vì vậy, tất cả các bệnh nhân phải được theo dõi chặt chẽ sau khi ngừng điều trị.
Interferon thường được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định bất kể tình trạng virus bởi vì tác dụng miễn dịch của interferon có thể tồn tại sau khi ngừng điều trị. Với interferon, thời gian ngừng điều trị được đề nghị là 12 tháng đối với cả hai nhóm bệnh nhân có HBeAg dương tính và HBeAg âm tính.
Khi nào thì dừng điều trị ở những người uống thuốc kháng virus thì không có hạn định. Với những người bệnh có HbeAg dương tính thì khuyến nghị chung là tiếp tục điều trị sau khi HbeAg, HBe kháng thể (anti-HBe) âm tính- hiện tượng chuyển đảo huyết thanh sau đó khoảng 6-12 tháng.Một số chuyên gia cho rằng chuyển đổi huyết thanh HBeAg không phải là tiêu chuẩn để khẳng định rằng đã điều trị thành công vì HBV vẫn còn và vẫn có khả năng sao chép. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng 50% -70% bệnh nhân có chuyển đảo huyết thanh sẽ có tình trạng lâm sàng thuyên giảm ( không thể phát hiện HBV DNA hoặc nồng độ này rất thấp và hoạt độ enzym ALT bình thường) trong nhiều năm.
Đối với nhóm bệnh nhân HbeAg âm tính thì việc điều trị có thể dừng lại khi xét nghiệm thấy bệnh nhân có HbsAg âm tính, nhưng điều đó chỉ xảy ra trong khoảng 5% bệnh nhân sau 5 năm điều trị. Đối với bệnh nhân bị xơ gan cơ bản thời gian điều trị thường là suốt đời.