Ung thư gan có hai loại là nguyên phát và di căn. Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại ung thư gan là ung thư gan nguyên phát triển trong gan, ung thư gan trong trường hợp di căn không có nguồn gốc từ gan. Thay vào đó, ung thư gan di căn gây ra là do các tế bào ung thư ở các bộ phận khác của cơ thể và đi vào gan gây ra các khối u di căn.
Ung thư gan di căn phổ biến nhất bắt nguồn từ phổi, vú, ruột già, tuyến tụy, hoặc dạ dày. Bệnh bạch cầu và u lympho (một bệnh ung thư của hệ bạch huyết), đặc biệt là Hodgkin lymphoma (bệnh Hodgkin), có thể liên quan đến gan. Ngoài ra còn nguyên nhân từ các ung thư khác như ung thư buồng trứng, tử cung, da. Ung thư lan đến gan vì gan lọc máu từ phần còn lại của cơ thể, và khi các tế bào ung thư phát triển thoát khỏi các bộ phận ung thư chính, chúng thường xâm nhập qua các mạch máu.
Ngay cả khi ung thư chính được chữa khỏi, ung thư gan di căn vẫn có thể xảy ra năm sau đó. Nếu đã bị ung thư ở bất cứ nơi nào khác, điều quan trọng là cần kiểm tra thường xuyên để phát hiện sớm nếu có ung thư gan di căn.
Các triệu chứng ung thư gan di căn
Trong giai đoạn đầu, ung thư gan di căn có thể không có triệu chứng, hoặc triệu chứng không cụ thể. Có thể có các triệu chứng như giảm cân, thèm ăn, sốt, và chán ăn nhưng các triệu chứng này thường bị nhầm lẫn với những bệnh thông thường khác. Gan to và cứng bất thường có thể được coi như là các triệu chứng điển hình của loại ung thư này. Khi đó, bệnh nhân có cảm giác khó chịu ở phần trên bên phải bụng.
Có thể có hoặc không xuất hiện triệu chứng vàng da ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, ở giai đoạn sau, triệu chứng vàng da dần dần rõ hơn do sự tắc nghẽn của các ống dẫn mật mang mật từ gan xuống ruột non. Do tắc nghẽn này, mật chảy trở lại vào máu, gây ra màu vàng của da và phần trắng của mắt. Sau đó, triệu chứng tiếp theo là cổ trướng hoặc trướng của khoang bụng. Cuối cùng, các bệnh nhân thường có biểu hiện nhầm lẫn và buồn ngủ, do sự tích tụ các chất độc trong não, như gan bị hỏng nặng không lọc máu như bình thường. Tình trạng này được gọi là gan bệnh não.
Tóm lại, các triệu chứng phổ biến của ung thư gan di căn bao gồm mất cảm giác ngon miệng, giảm cân, nước tiểu màu tối, bụng sưng hoặc đầy hơi, vàng da (vàng da hoặc tròng trắng của mắt), đau ở vai phải, đau ở vùng bụng trên bên phải, buồn nôn, sự nhầm lẫn, đổ mồ hôi và sốt
Nếu bệnh nhân có các tình trạng biểu hiện như nôn mửa, nôn ra máu, giảm cân không rõ nguyên nhân, nước tiểu hoặc phân đen, khó nuốt cần đặc biệt đến khám bác sĩ để xét nghiệm chuẩn đoán bệnh ung thư gan di căn và điều trị kịp thời (nếu có bệnh).
Chẩn đoán ung thư gan di căn
Các bệnh nhân thường nhận biết bệnh và đi khám khi ung thư gan di căn đã ở gia đoạn nặng. Trong quá trình khám sức khỏe, bác sĩ có thể nghi ngờ ung thư gan nếu tìm thấy cục u, hoặc nếu có các triệu chứng trên. Các loại thử nghiệm khác nhau là cần thiết để chuẩn đoán xác định bệnh. Các xét nghiệm này bao gồm:
Kiểm tra chức năng gan : Chức năng gan nhìn vào các dấu hiệu huyết thanh, tăng men gan, và một số protein. Đánh dấu huyết thanh là những chất trong máu có liên quan đến ung thư.
Siêu âm gan : Siêu âm truyền sóng âm thanh tần số cao thông qua cơ thể. Những sóng âm thanh tạo ra tiếng vang. Tiếng vọng này sau đó được sử dụng để tạo ra các bản đồ giống như hình ảnh trên máy vi tính cấu trúc mô mềm của cơ thể.
CT scan bụng : Chụp cắt lớp vi tính (CT scan) là một loại đặc biệt của X-ray. Hình ảnh trực quan chi tiết của các cơ quan mô mềm. Từ đó xác định được mô ung thư
MRI : Ảnh cộng hưởng từ (MRI) tạo ra hình ảnh rõ ràng của các cơ quan nội tạng và cấu trúc mô mềm. Nó sử dụng sóng radio, một nam châm lớn, và một máy tính.
Chụp mạch : Trong một chụp mạch, thuốc nhuộm được tiêm vào động mạch. Khi hình ảnh được thực hiện, chụp cơ thể dọc theo đường động mạch, nó có thể tạo ra hình ảnh có độ tương phản cao của các cấu trúc nội bộ.
Phẫu thuật nội soi : Là sử dụng một ống hẹp với một ánh sáng và một công cụ sinh thiết (mô mẫu). Ống nội soi được đưa vào thông qua một vết rạch nhỏ, và sinh thiết được thực hiện để nghiên cứu dưới kính hiển vi. Phẫu thuật nội soi là phương pháp đáng tin cậy nhất chẩn đoán ung thư xâm lấn tối thiểu.
Điều trị
Việc điều trị ung thư gan phụ thuộc vào mức độ bệnh đã lan rộng, nguồn gốc và bản chất của căn bệnh ung thư chính. Điều trị thông thường bao gồm hóa trị, xạ trị và phẫu thuật cắt bỏ khối u. Tuy nhiên, phẫu thuật được thực hiện nếu số lượng của các khối u rất ít và hạn chế đến một khu vực cụ thể. Hóa trị có thể kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân, trong khi xạ trị có thể được sử dụng để làm giảm cơn đau dữ dội.
Tuổi thọ của một bệnh nhân bị ung thư gan di căn phụ thuộc vào thời điểm bệnh được chẩn đoán, và phụ thuộc vào các lựa chọn điều trị được thực hiện. Tuy nhiên, trên mức trung bình, khi hóa trị liệu được sử dụng như một phương pháp điều trị, tỷ lệ sống được1 năm điều trị là khoảng 10 – 15%, và 3 năm cơ hội duy trì sự sống là 5%. Ghép gan làm tăng cơ hội sống sót được 1 năm đến hơn 80%, và khả năng làm cho tỉ lệ sống 5 năm là 75%.
Phẫu thuật : Nếu chỉ có một khối u đơn lẻ hoặc một khối u được tìm thấy trong gan, có thể được phẫu thuật cắt bỏ, đặc biệt là nếu ung thư có nguồn gốc trong ruột. Tuy nhiên, các chuyên gia không đề cao và khuyến khích áp dụng phương pháp điều trị này.
Xạ trị : Sử dụng bức xạ năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư và thu nhỏ các khối u. Đôi khi phương pháp điều trị này làm giảm cơn đau nặng, nhưng nó có rất ít lợi ích khác.
Hóa trị : Những thuốc này có thể được sử dụng để tạm thời thu nhỏ khối u và kéo dài tuổi thọ, nhưng họ không chữa được bệnh ung thư. Loại thuốc hóa trị có thể được tiêm vào động mạch chính của gan (động mạch gan), cung cấp một nồng độ cao của thuốc trực tiếp vào các tế bào ung thư trong gan.
Sửa đổi đáp ứng sinh học (BRM) : điều trị sử dụng một số kháng thể, yếu tố tăng trưởng, và vắc-xin. Điều trị BRM cũng có thể làm giảm tác dụng phụ của phương pháp điều trị ung thư khác, trong một số trường hợp, phương pháp này trực tiếp chống lại các khối u.
Giai đoạn bệnh ung thư được phát hiện có ảnh hưởng rất lớn đến việc điều trị bệnh. Vì vậy, không nên bỏ qua bất kỳ vấn đề nào liên quan đến gan. Ngay cả khi các triệu chứng mơ hồ như giảm cân, chán ăn, khó chịu ở phía bên phải của vùng bụng trên, nên tham khảo bác sĩ để làm xét nghiệm chuẩn đoán là cần thiết phòng ngừa ung thư gan di căn.
Thu Cúc biên soạn