Theo Đông Y, bệnh gút hay còn có tên gọi khác là thống phong. Thống phong được dùng để chỉ các chứng đau nhức do phong tà gây nên. Đông y xếp bệnh thống phong thuộc phạm trù chứng tý có nghĩa là bế tắc, không thông. Bên cạnh những phương thức chữa trị bằng y học hiện đại, hiện nay việc áp dụng Đông y trong điều trị thống phong hay gout cũng rất phổ biến và hiệu quả. Trong bài này chúng tôi giới thiệu hai phương pháp điều trị bệnh gút bằng Đông y là thuốc sắc uống và thuốc bôi ngoài da.
Hình ảnh về bệnh thống phong.
Nguyên tắc điều trị thống phong:
- Tắc giả thông chi (bế tắc thì phải khai thông).
- Trị phong, tiên trị huyết; huyết hành; phong tất diệt (muốn trị phong thì trước hết phải trị huyết, huyết lưu thông được thì phong tự hết).
- Cấp tắc kỳ trị tiêu, hoãn tắc kỳ trị bản (cấp tính thì chữa ngọn, mạn tính thì chữa gốc).
- Công bổ kiêm thi (vừa công vừa bổ).
Do được xếp vào phạm trù chứng tý cho nên từ xa xưa tới nay, các thầy thuốc phương Đông đều dựa trên cơ sở của phép biện chứng về chứng tý để chữa thống phong.
Phương pháp biện chứng luận trị thống phong theo các thể lâm sàng bao gồm:
Thể phong thấp nhiệt:
- Chủ chứng: Đau khớp đột ngột, thường vào lúc nửa đêm, người có khi phát sốt. tại khớp sưng, nóng, đỏ, cự án; lưỡi đỏ, rêu vàng, dày. Mạch huyền, hoạt sác.
- Phép trị: Trừ thấp thanh nhiệt, tiết trọc thông lạc.
- Phương dược: Thanh trọc thống tý thang (Nhẫn đông đằng: 30g; Hoàng bá: 15g; Ý dĩ: 30g; Thổ phục linh: 30g; Mao đông thanh: 30g; Huyền sâm: 15g; Đương quy: 12g; Một dược: 10g; Ngưu tất: 15g; Phòng kỷ: 15g; Tần giao: 15g; Thất diệp liên: 30g), sắc uống mỗi ngày một thang.
Thể khí trệ trọc ứ:
- Chủ chứng: Khớp sưng đau, không đi lại được, hay tái phát, bệnh kéo dài dai dẳng, người mệt mỏi, ngực sườn đầy tức, lâu ngày khớp xương xơ cứng, biến dạng. lưỡi ám tối, rêu trắng dày. Mạch huyền, hoạt, sáp.
- Phép trị: Hành khí, hoạt huyết, trừ ứ thông lạc.
- Phương dược: Trừ ứ thông lạc thang (Hoàng kỳ: 30g; Thương truật: 15g; Ý dĩ: 30g; Tỳ giải: 30g; Mao đông thanh: 30 g; Xuyên sơn giáp: 15g; Đương quy: 12g; Ngưu tất: 15g; Xích thược: 15g; Uy linh tiên: 15g; Trần bì: 6g; Xuyên khung: 8g), sắc uống mỗi ngày một thang.
Thể tỳ hư trọc ứ:
- Chủ chứng: Khớp đau ê ẩm, cử động không linh hoạt, chân tay tê bì nổi u cục, người mệt mỏi vô lực. Tâm quý, khí đoản, buồn nôn. Chất lưỡi hồng nhạt có ấn răng, rêu lưỡi trắng hoạt. mạch trầm hoãn, tế sáp.
- Phép trị: Kiện tỳ tiết trọc, trừ ứ thông lạc.
- Phương dược: Phong kỷ hoàng kỳ thang gia vị (Hoàng kỳ: 30g; Phòng kỷ: 15g; Bạch truật: 12g; Ý dĩ: 30g; Cam thảo: 6g; Tỳ giải: 30g; Thổ phục linh: 30g; Tằm xa: 15g; Xích thược: 15g; Mao đông thanh: 30g), sắc uống mỗi ngày một thang.
Thể thận hư trọc ứ:
- Chủ chứng : Bệnh kéo dài lâu ngày dai dẳng, khớp biến dạng nổi u cục, có biến chứng tại thận như viêm thận, sỏi thận, đau đầu huyễn vựng, tiểu tiện ít, tâm quý, phù thũng. Lưỡi đỏ, ít rêu. Mạch trầm huyền tế sáp.
- Phép trị: Bổ thận tiết trọc, trừ ứ thông lạc.
- Phương dược: Lục vị địa hoàng hoàn gia vị (Thục đia: 25g; Sơn dương: 12g; Phục linh: 15g; Sơn thù nhục: 12g; Trạch tả: 10g; Đan bì: 10g; Ích mẫu thảo: 30 g; Xa tiền thảo: 30g; Đỗ trọng: 15g; Hoàng kỳ: 30g), sắc uống mỗi ngày một thang.
Đông y có rất nhiều dạng để điều trị, bên cạnh việc dùng các thảo dược làm thuốc sắc uống thì việc tận dụng thảo dược làm thuốc bôi ngoài ra cũng được áp dụng trong điều trị bệnh thống phong:
- Với thể phong thấp tê trở, dùng Cao phù hoàng (lá phù du, Sinh đại hoàng, Xích tiểu đậu cùng nghiền thành bột mịn theo tỷ lệ 4:6; trộn đều thành cao), bôi ngoài vết thương mỗi ngày một lần.
Từ những thảo dược có thể nghiền và tạo ra phương thuốc bôi để điều trị thống phong.
Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa.
- Với thể thấp nhiệt uẩn kết, dùng Trắc bách diệp 30g, Đại hoàng 30g, Hoàng bá 15g, Bạc hà 15g, Trạch lan 15g cùng nghiền thành bột, cho thêm mật ong và chút nước quấy thành hồ, bôi bên ngoài.
- Với các thể ứ huyết, dùng Hồi dương ngọc long cao (Thảo ô, Ổi khương mỗi loại 90g; Xích thược, Bạch chỉ, Thiên nam tinh mỗi loại 30g; Nhục quế 15g, nghiền thành bột, trộn thành cao), bôi bên ngoài chỗ đau.
- Với các thể ứ huyết trở lạc, dùng Quế xuyên ô, Chế thảo ô, Mộc qua, Hồng hoa mỗi loại 30g, cho thêm 2500ml nước đun thành 2000ml cao, rửa bên ngoài.
- Với các thể thấp nhiệt tê trở, dùng liễu thụ hoa 30g, Kim tiền thảo 30g, bồ công anh 30g, thổ phục linh 30g, tử hoa địa đinh 30g, sinh đại hoàng 30g, cho lượng nước vừa đủ, đun trong 30 phút, sau đó rửa chỗ đau.