Sự nguy hiểm của virus viêm gan C

Các nghiên cữ đã cho thấy tỷ lệ mắc viêm gan virus C cấp có triệu chứng ở Hoa Kỳ là 0,2 trường hợp trên 100.000 dân vào năm 2005; ở Italia năm 2001 là 1 trường hợp trên 100.000 dân... Viêm gan C là Bệnh khá nguy hiểm tuy nhiên  triệu chứng lại rất khó nhận biết, bệnh cứ âm thầm tiến triển đến xơ gan, ung thư gan...

viem-gan-c

Cách lây nhiễm virus viêm gan C

Virus viêm gan C lưu hành trong máu, do đó bệnh viêm gan C lây truyền chủ yếu qua đường máu. viêm gan C RNA đã được phát hiện ở nước bọt, máu kinh, tinh dịch, nước tiểu, dịch não tủy và dịch báng trong xơ gan cổ trướng. viêm gan C ở trong huyết thanh khô vẫn có khả năng gây nhiễm tại nhiệt độ phòng  trên 16 giờ. Có nhiều đường lây bệnh: lây nhiễm do truyền từ máu hay  trong lúc sinh từ mẹ sang con, lây qua các dụng cụ như: bơm kim tiêm, dụng cụ nội soi, kim châm cứu, kim xăm mình, dao cạo râu, dụng cụ cắt sửa móng tay, tiêm chích ma tuý...

Những nghiên cứu về lây nhiễm viêm gan virus C do quan hệ giới tính có tỷ lệ rất thấp ở vợ chồng hay người bạn tình ổn định. Tuy nguy cơ lây nhiễm qua quan hệ tình dục của viêm gan C là nhỏ, nhưng việc đồng nhiễm với HIV có thể gia tăng lây nhiễm viêm gan C, đặc biệt giữa những người đồng tính luyến ái nam. Trẻ sơ sinh nhiễm viêm gan C từ 2,7 - 8,4% số trẻ được sinh ra do các bà mẹ bị nhiễm viêm gan C, tỷ lệ này cao hơn ở con các bà mẹ đồng nhiễm HIV và viêm gan C

Diễn tiến của bệnh viêm gan virus C

Nhiễm khuẩn cấp tính: hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng, số ít có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, có thể vàng da, vàng mắt, nước tiểu đậm màu. Chẩn đoán bệnh dựa vào xét nghiệm máu.

Nhiễm khuẩn mạn tính: khoảng 85% trường hợp nhiễm viêm gan C sẽ chuyển thành viêm gan mạn tính. Đặc điểm của bệnh viêm gan C mạn tính là tiến triển thầm lặng từ 10-30 năm, cho nên bệnh nhân không biết mình mắc bệnh và không được chẩn đoán điều trị kịp thời. Nhiều trường hợp bệnh nhân chỉ được phát hiện khi đã có biến chứng nặng như: xơ gan cổ trướng với biểu hiện báng bụng, giãn mạch máu đường tiêu hóa, có thể vỡ gây chảy máu ồ ạt và tử vong; gan đã bị xơ khó hồi phục lại, dù tình trạng viêm có thuyên giảm; biến chứng ung thư tế bào gan.

Về dấu hiệu cận lâm sàng: viêm gan virus C có triệu chứng điển hình là gia tăng đột ngột men alamine aminotransferases (ALT) huyết thanh từ tuần 10 - 14 sau khi bị nhiễm. Việc hồi phục hoàn toàn khỏi nhiễm viêm gan C ước tính chỉ dưới 20%. Những bệnh nhân viêm gan virus C có triệu chứng sạch virus tự nhiên cao hơn những bệnh nhân không triệu chứng. Những bệnh nhân nhiễm cấp nặng, đặc biệt là biểu hiện vàng da, hoặc bệnh nhân có biểu hiện gia tăng hơn của hoạt tính men aminotransferase có ảnh hưởng đến sự sạch virus tự nhiên bởi có những đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ hơn.

Việc chẩn đoán còn nhiều khó khăn

virus viêm gan C mới được phát hiện từ năm 1989, nên xét nghiệm chẩn đoán bệnh cũng mới có trong những năm gần đây. Xét nghiệm máu thấy men gan tăng chứng tỏ tế bào gan đang bị hủy hoại. Người ta cũng tìm thấy kháng thể chống viêm gan C dương tính trong hầu hết các trường hợp. Chức năng gan có thể rối loạn tùy mức độ và thời gian bị bệnh. Xét nghiệm viêm gan C RNA phát hiện virus trong máu. Men ALT tăng hơn 5 lần so với bình thường và huyết thanh dương tính với viêm gan C RNA  cùng với tiền sử rõ ràng có thể chẩn đoán được viêm gan C cấp. Xét nghiệm kháng thể viêm gan C có thể dương tính hay âm tính trong suốt giai đoạn cấp tính nhưng hầu hết các trường hợp cho thấy việc đảo ngược huyết thanh từ âm sang dương của kháng thể viêm gan C ở giai đoạn sau. Thời gian của việc xuất hiện kháng thể viêm gan C hay việc đảo ngược huyết thanh thay đổi từ 8 - 20 tuần. Số ít bệnh nhân vẫn âm tính kháng thể viêm gan C trong suốt giai đoạn cấp tính. Có 7- 40% bệnh nhân không phát hiện được kháng thể sau khi đã sạch viêm gan C một cách tự nhiên. Do đó không có bằng chứng về huyết thanh của việc nhiễm viêm gan C sau khi đã hồi phục.

Xem tiếp:

theo doisongsuckhoe 9/4/2010


 

Chủ đề

Sản phẩm tuệ linh