Dược Tuệ Linh https://tuelinh.vn Thu, 08 Aug 2013 06:44:53 +0000 vi hourly 1 Vitamin B12 gây ức chế virus viêm gan C https://tuelinh.vn/vitamin-b12-gay-uc-che-virus-viem-gan-c-11304 https://tuelinh.vn/vitamin-b12-gay-uc-che-virus-viem-gan-c-11304#respond Tue, 08 Jan 2013 07:17:43 +0000 https://tuelinh.vn/?p=11304 Theo một nghiên cứu được đăng trực tuyến trên tạp chí Gut cho thấy thêm vitamin B12 vào phác đồ điều trị chống vi-rút viêm gan C (hepatitis C virus – HCV) chuẩn đã làm tăng rõ rệt khả năng ngăn chặn vi-rút.

Hiệu quả này đặc biệt mạnh ở những bệnh nhân mà tình trạng nhiễm vi-rút của họ được cho là khó điều trị hiệu quả.

Phác đồ điều trị chuẩn interferon (peg IFN) và ribavarin làm sạch vi-rút ở khoảng 50% số bệnh nhân nhiễm HCV kiểu gien 1 và 80% số người nhiễm kiểu gien 2 hoặc 3. Nhưng phác đồ này không làm sạch vi-rút ở khoảng một nửa số người nhiễm HCV hoặc nhiễm tái phát khi ngừng điều trị.

Trong khi thử nghiệm các thuốc kháng vi-rút thế hệ mới cho thấy có triển vọng, thì những thuốc này thường đắt và có thể khiến cho việc điều trị khó hơn.

Như chúng ta đã biết, 60-80% số người bị nhiễm HCV sẽ tiến triển viêm gan mạn tính và gần 1/3 số họ sẽ tiến triển thành xơ gan và bệnh gan giai đoạn cuối. Gan là trung tâm chứa phần lớn vitamin B12 của cơ thể, nhưng khả năng này bị suy giảm khi có bệnh tác động trực tiếp tới gan.

Nghiên cứu thử nghiệm cho thấy vitamin B12 có thể có vai trò ức chế HCV. Do đó các tác giả muốn xem liệu thêm vitamin B12 vào phác đồ chuẩn có tạo nên sự khác biệt không.

Kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa 2 phác đồ điều trị tại thời điểm sau 4 tuần, nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa về đáp ứng ở tất cả các thời điểm khác, đặc biệt là 24 tuần sau khi ngừng điều trị, là mục tiêu của việc điều trị HCV và đích gần nhất để chữa khỏi bệnh. Hiệu quả này cũng tăng rõ rệt ở những người mang chủng týp 1, là chủng rất khó điều trị, và ở những người có mức nhiễm cao (sức tải vi-rút cao) lúc bắt đầu.

Nói chung thì thêm vitamin B12 vào phác đồ điều trị chuẩn đã làm tăng 34% tỷ lệ đáp ứng vi-rút ổn định.

Các tác giả kết luận rằng: cho tới khi thiết lập được các tiêu chuẩn thích hợp để điều trị bằng các thuốc kháng vi-rút thế hệ mới, phác đồ chuẩn cộng thêm vitamin B12 là phác đồ thay thế an toàn và rẻ tiền, đặc biệt là cho những người mang chủng vi-vút khó điều trị.

Theo: tienphong

]]>
https://tuelinh.vn/vitamin-b12-gay-uc-che-virus-viem-gan-c-11304/feed 0
Những bài học thực tế trong điều trị viêm gan C https://tuelinh.vn/nhung-bai-hoc-thuc-te-trong-dieu-tri-viem-gan-c-10925 https://tuelinh.vn/nhung-bai-hoc-thuc-te-trong-dieu-tri-viem-gan-c-10925#respond Thu, 29 Nov 2012 01:49:28 +0000 https://tuelinh.vn/nhung-bai-hoc-thuc-te-trong-dieu-tri-viem-gan-c-10925 Người bệnh nhân bị viêm gan C thường rất lo sợ và bi quan vì có thể chuyển sang xơ gan, ung thư gan. Thực tế thì ai cũng muốn được điều trị, nhưng không phải ai cũng đủ kiền trì và điều trị bệnh thực sự nghiêm túc.

Người bị viêm gan C nên sớm được điều trị (Ảnh minh họa)

Bà Vũ Thị Thu Hà cho biết giữa tháng 6-2009, chồng bà là ông H.V.T. được bác sĩ của một bệnh viện chẩn đoán viêm gan C type 6. Bác sĩ này nói ông T. phải chích và uống thuốc một năm. Điều trị được sáu tháng thì sức khỏe ông T. suy sụp hẳn, yếu sức, mệt mỏi, ăn không được, lở loét khắp người… Ngày 13-1-2010, sau mũi chích của tháng thứ bảy ông T. cảm thấy rất khó chịu, sau đó sốt, ớn lạnh, ói liên tục phải đi cấp cứu. Sau một tháng cấp cứu, điều trị ở nhiều bệnh viện, ngày 16-2 ông T. qua đời ở tuổi 64.

Cần cân nhắc kỹ trước khi điều trị

TS.BS Trần Tịnh Hiền – nguyên phó giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM – cho biết không phải bệnh nhân nào bị viêm gan C cũng phải điều trị. Trước khi quyết định có điều trị hay không, bác sĩ phải cho bệnh nhân xét nghiệm nồng độ siêu vi C trong máu, xác định xem siêu vi C thuộc type di truyền nào (có sáu type khác nhau).

Ngoài ra, bệnh nhân cần phải được sinh thiết gan (đặc biệt là bị viêm gan type 1) để xác định mức độ hư hại của gan, giai đoạn bệnh. Kết quả sinh thiết sẽ giúp bác sĩ quyết định và đánh giá hiệu quả điều trị cho bệnh nhân chính xác nhất.

Tuy nhiên, tại VN đa số bệnh nhân không được sinh thiết gan trước khi điều trị. Vì vậy, nếu chỉ xét nghiệm thấy nồng độ virus cao, xác định type nào rồi cho bệnh nhân điều trị ngay là chưa đúng.

Theo TS Tịnh Hiền, việc điều trị cũng phải xem xét cụ thể trên từng bệnh nhân, bởi phác đồ phối hợp hai loại thuốc đặc trị hiện nay là thuốc Interferon (chích) và Ribavirin (uống) có rất nhiều phản ứng phụ. Interferon khiến người bệnh có thể mệt mỏi, chán ăn, ói mửa, rụng tóc… Ribavirin có thể gây ho, khó thở, ngứa, nổi ban đỏ ngoài da, mất ngủ, thiếu máu (các tác dụng phụ này sẽ hết sau khi ngưng điều trị).

Vì vậy, bác sĩ phải cân nhắc xem bệnh nhân bao nhiêu tuổi, thể trạng thế nào (người mập, uống rượu nhiều có nguy cơ biến chứng nhiều hơn), nồng độ siêu vi C bao nhiêu, có bệnh lý khác (tim mạch, tiểu đường…) kèm theo không, khả năng kinh tế thế nào (do thuốc mắc tiền, điều trị kéo dài). Nếu người bệnh đã 60-70 tuổi, đang khỏe mạnh, đi đứng bình thường, xét nghiệm thấy có siêu vi C nhưng nồng độ không cao lắm, men gan chưa có vấn đề gì thì không nên điều trị. Vì khi mắc bệnh cũng phải 20-25 năm sau bệnh nhân mới có thể chuyển qua xơ gan.

Khi có chỉ định điều trị, bác sĩ phải theo dõi, đánh giá hiệu quả điều trị cho bệnh nhân qua xét nghiệm nồng độ virus trong máu định kỳ vào các tuần thứ 12, 24, 48 và 72. Ví dụ, bệnh nhân bị viêm gan C type 1, đã điều trị đến tuần 24 nhưng nồng độ virus trong máu không giảm thì phải ngưng điều trị, vì có điều trị cũng không giúp được gì hơn cho người bệnh mà còn làm họ thêm mệt mỏi, lo lắng, tốn kém tiền bạc vô ích. Với những bệnh nhân này, khi ngưng điều trị cần được theo dõi xơ gan, ung thư gan định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ.

Thực tế nếu theo đúng nguyên tắc, trước khi điều trị bác sĩ phải tư vấn cho người bệnh biết việc điều trị có lợi, hại thế nào cho sức khỏe. Bệnh nhân phải được biết bệnh của họ điều trị trong bao lâu, điều trị như thế nào, cần chuẩn bị bao nhiêu tiền (do chi phí điều trị tốn kém hàng trăm triệu đồng, bỏ nửa chừng sẽ làm siêu vi C ngày càng kháng thuốc), chuẩn bị tinh thần, tâm lý để điều trị, nhất là khi bị tác dụng phụ của thuốc.

Trường hợp bệnh nhân gặp phản ứng trầm trọng do thuốc phải ngưng điều trị ngay. Nếu bác sĩ vẫn cố điều trị, thay vì phải 10-20 năm nữa bệnh nhân mới chết vì viêm gan C thì lại chết ngay vì phản ứng phụ của thuốc.

Xem tiếp: Điều trị viêm gan siêu vi C không dùng thuốc

Theo: Tuổi trẻ

]]>
https://tuelinh.vn/nhung-bai-hoc-thuc-te-trong-dieu-tri-viem-gan-c-10925/feed 0
Điều trị viêm gan C không dùng thuốc https://tuelinh.vn/dieu-tri-viem-gan-c-khong-dung-thuoc-10896 https://tuelinh.vn/dieu-tri-viem-gan-c-khong-dung-thuoc-10896#respond Tue, 20 Nov 2012 10:04:22 +0000 https://tuelinh.vn/?p=10896 Viêm gan C là bệnh rất khó đối phó vì hiện nay không có cách điều trị đơn giản. Lối sống đóng một vài trò quan trọng trong việc theo dõi, đối phó và chữa trị bệnh viêm gan C. Ăn uống đúng mức, tập thể dục thường xuyên, và giữ tinh thần thoải mái, không căng thẳng là những điều tối trọng để duy trì sức khỏe tốt.

Xem bài trước: Điều trị bệnh viêm gan C bằng thuốc

Chích ngừa viêm gan A và viêm gan B

Các người có viêm gan C được khuyên nên đi chích ngừa viêm gan A và B nếu chưa được miễn nhiễm. Ðã có nhiều người mắc bệnh viêm gan C đã bị nhiễm bệnh viêm gan A & B nặng. Thuốc chích ngừa viêm gan A gồm có hai (2) liều thuốc được chích trong vòng sáu tháng. Thuốc chích ngừa viêm gan B gồm ba (3) liều được chích trong vòng sáu tháng. Cả hai loại thuốc chích ngừa viêm gan A & B được bào chế từ các siêu vi đã bị hủy diệt và được xem như là an toàn và hiệu nghiệm. Loại thuốc chích ngừa viêm A & B tổng hợp đã được FDA chấp thuận vào tháng 5, 2001.

Dinh dưỡng cho người viêm gan C

Vì gan chuyển hóa và lọc độc tố trong các thức ăn uống, nên cần thiết phải ăn uống một cách lành mạnh và cân bằng. Cách ăn uống theo các quy định dinh dưỡng dựa vào Tháp Hướng Dẫn Thức Ăn (Food Guide Pyramid) thường được đề nghị. Ðiển hình là ăn ít chất béo và muối, nhiều tinh bột, và đầy đủ chất đạm.

Tuy việc thay đổi cách ăn uống để đối phó với bệnh viêm gan C không còn được xem là quan trọng như xưa, tuy nhiên, nếu tránh một số các thức ăn thì có thể giảm những việc gan phải làm, và có thể cải tiến sức khoẻ của gan. Các thức ăn được chế biến sẵn thường có thêm hóa chất, cho nên hãy bớt tiêu thụ các loại thức ăn đóng hộp, đông lạnh, và thức ăn được giữ lâu. Hãy ăn các loại trái cây và rau quả ít dùng phân hóa học sẽ giúp bạn có thể tránh được thuốc diệt sâu bọ hoặc các phân bón hóa học. Hãy đọc tất cả các nhãn hiệu để bạn làm quen với thành phần của thực phẩm.

Chất đạm xuất phát từ gia cầm, cá, và các nguồn rau quả có lợi nhiều cho sức khỏe. Một số bác sĩ khuyên các người có viêm gan các loại không nên ăn sò ốc sống, tái, hoặc chưa được nấu chín (cho dù đã miễn nhiễm viêm gan A). Các người có viêm gan C thường được khuyên là nên tránh các thức ăn chứa nhiều chất béo, muối, hoặc đường. Chất caffeine là một hóa chất cần được gan chuyển hóa, do đó bạn nên giới hạn việc sử dụng caffeine bằng cách giảm uống cà phê, trà, và sôđa. Dùng chocolate vừa phải vì nó chứa nhiều chất béo (vài loại khác có chứa chất caffeine). Một số người có viêm gan C không hợp với các sản phẩm bơ sữa; bạn có thể thay thế sữa đậu nành hoặc sữa gạo.

Ăn uống cân bằng nên chứa đựng đầy đủ các chất bổ và khoáng chất cần thiết cho con người, và có người còn uống thêm thuốc bổ. Uống quá nhiều thuốc bổ có thể gây hại. Tránh uống nhiều thuốc bổ có chứa vitamin A và D; vitamin A có thể rất độc cho gan. Nếu bạn cần uống thêm thuốc bổ và/hoặc khoáng chất, hãy dùng liều lượng thấp và loại không có chất sắt.

Chất độc từ môi trường

Những gì bạn hít vào hoặc thấm qua làn da đều được gan thanh lọc. Hơi bốc từ các loại sơn, các hóa chất làm hòa tan, thuốc diệt sâu bọ, và hơi ép aerosol từ các chai, lọ có thể làm hại gan và cần nên tránh.

Bia, rượu và thuốc

Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy uống quá nhiều rượu sẽ làm cho bệnh viêm gan C tiến triển rất nhanh. Gần đây, một nghiên cứu cho thấy 58% các người có viêm gan C trong nhóm uống rượu nhiều (uống hơn 5 ly mỗi ngày) bị xơ gan, so với 10% các người có viêm gan C trong nhóm không uống rượu bị xơ gan mà thôi. Người ta chưa biết dùng rượu với số lượng ít hoặc vừa phải có hại cho gan hay không, nhưng hầu hết các chuyên gia vẫn khuyên người có viêm gan C tránh uống rượu.

Nhiều loại thuốc (thuốc cần toa bác sĩ, thuốc mua tự do, hoặc xì ke/ma túy) đều do gan chuyển hóa. Các người có viêm gan C nên tránh xì ke/ma túy và thuốc lá. Tham khảo với bác sĩ trước khi bạn uống thuốc mua tự do hoặc thuốc cần toa bác sĩ. Một số các dược thảo trị bệnh được cho thấy là gây hại đến gan.

Ðối phó với căng thẳng và mệt mỏi

Kiểm soát căng thẳng là một yếu tố chủ yếu trong việc đối phó bệnh viêm gan C. Sống với một cơn bệnh kinh niên rất căng thẳng. Nhiều người cho biết cơn bệnh “bùng nổ” (những giai đoạn mà triệu chứng gia tăng) sau những thời kỳ căng thẳng. Tập thể dục, thiền, và sắp xếp thời gian có thể giảm sự căng thẳng. Cố gắng có cái nhìn thực tế về sức khỏe của bạn và giữ một tinh thần tích cực. Hiểu rõ về tình trạng bệnh gan của bạn là một phần quan trọng để có một hình ảnh thực tế về hoàn cảnh của bạn.

Người có viêm gan C thường hay mệt mỏi và thiếu sức lực. Tìm hiểu giới hạn của mình và đừng có quá sức. Hơn nữa, khi bạn sắp xếp lịch trình sinh hoạt, hãy xen vào đó những thời gian nghỉ ngơi hoặc giấc ngủ ngắn. Hãy nhớ rằng sức khỏe của bạn mới quan trọng –  hãy học cách từ chối khéo bạn bè và thân nhân nếu họ có nhiều đòi hỏi khiến bạn có thể mất quá nhiều thời giờ hoặc sức lực.

Tập thể dục vừa phải và thiền

Bạn cần sắp xếp các sinh hoạt của bạn càng sớm càng tốt và cố gắng vừa làm vừa chơi một cách thực tế. Hãy dùng bảng ghi xếp thời khóa biểu để giúp bạn sắp xếp và ghi nhớ các sinh hoạt đó.

Các người có viêm gan C không trong thời kỳ cấp tính nên tập thể dục một cách vừa phải. Tập thể dục có thể làm giảm bớt căng thẳng và là việc quan trọng để duy trì sức khỏe tốt. Tuy nhiên, tập thể dục quá nhiều có thể dẫn tới việc các triệu chứng “bùng nổ” (flare-ups). Hãy chọn những thể loại có tác động nhẹ như đi bộ và bơi lội. Từ từ tăng nhịp độ để đạt được mức mong muốn. Luôn luôn tham khảo bác sĩ trước khi bắt đầu bất cứ loại thể dục nào.
Ngoài ra thiền là một công cụ hữu ích trong việc đối phó và sống với bệnh viêm gan C hoặc với bất cứ cơn bệnh kinh niên nào. Thiền rất đơn giản và dễ học. Thiền có thể giảm bớt căng thẳng và giúp bạn duy trì cái nhìn lành mạnh đối với cuộc sống.

Theo: hcvadvocate

]]>
https://tuelinh.vn/dieu-tri-viem-gan-c-khong-dung-thuoc-10896/feed 0
Cách chữa trị viêm gan C bằng thuốc https://tuelinh.vn/cach-chua-tri-viem-gan-c-bang-thuoc-10815 https://tuelinh.vn/cach-chua-tri-viem-gan-c-bang-thuoc-10815#respond Fri, 16 Nov 2012 03:25:52 +0000 https://tuelinh.vn/cach-chua-tri-viem-gan-c-bang-thuoc-10815

Viêm gan siêu vi C (HCV) là một bệnh khá nguy hiểm tuy nhiên không có thuốc chích ngừa viêm gan C hiệu quả, mà chỉ có thuốc ngừa viêm gan A (HAV) và viêm gan B (HBV). Thuốc chích ngừa HCV rất khó mà bào chế vì có nhiều loại siêu vi HCV khác nhau và chúng lại có khả năng biến đổi hoặc biến dạng trong thời kỳ nhiễm bệnh. Tuy có tiến bộ, nhưng sẽ không có thuốc chích ngừa HCV hữu hiệu trong vòng 5 cho đến 10 năm nữa.

Cho đến năm 1998, việc trị liệu bằng interferon đơn phương (monotherapy) là phương pháp duy nhất được phê chuẩn để chữa trị bệnh nhiễm HCV. Ngày nay, tiêu chuẩn điều trị bệnh nhiễm HCV là sự phối hợp giữa thuốc pegylated interferon (interferon duy trì lâu), và thuốc ribavirin. Việc khảo cứu vẫn trên đà phát triển để bào chế các loại thuốc mới và tốt hơn, như các loại thuốc ngăn cản chất men liên quan đến sự sinh trưởng của HCV như helicase inhibitors và protease inhibitors, và các loại thuốc chống kéo sơ gan như antifibrotic.

Ngoài ra có một số phương pháp trị bệnh khác (alternative) và bổ sung (complementary) để chữa trị HCV; thí dụ như dùng cỏ gai (silymarin) và rễ cam-thảo (glycyrrhizin). Trong bản dữ kiện của chương trình Hỗ Trợ Viêm Gan C, dược thảo và các liệu pháp khác cũng được bàn luận đến. (Xin bấm ở đây để tải tài liệu xuống).

Những Dược Phẩm Chữa Trị Ðược Phê Chuẩn

Những loại thuốc được Cơ Quan Thực Dược Phẩm (FDA) phê chuẩn để trị viêm gan C là interferon, pegylated interferon (duy trì lâu), và ribavirin. Thuốc chích interferon là sản phẩm bào chế dựa vào một số chất đạm của hệ thống miễn nhiễm được tìm thấy trong cơ thể. Thuốc chích pegylated interferon (PEG) là một thể loại interferon có khả năng duy trì lâu dài do đó chỉ cần chích mỗi tuần một lần. Thuốc PEG duy trì một mức độ interferon ổn định trong máu và có nhiều hiệu quả hơn để giảm khả năng sinh sản của HCV. Ribarivin là thuốc uống chống siêu vi (oral antiviral) được phối hợp với interferon để chữa bệnh HCV. Nếu chỉ dùng riêng ribarivin thì không có hiệu quả.

Cảnh báo về thuốc Ribavirin: Ribavirin có thể gây ra quái thai và hư thai. Phụ nữ trong độ tuổi sanh đẻ, chồng/bạn tình của họ, và những phụ nữ có chồng/bạn tình đang uống ribavirin phải dùng ít nhất hai phương cách ngừa thai hữu hiệu trong suốt quá trình chữa trị và trong vòng 6 tháng sau khi chữa trị.

Phương pháp interferon đơn phương

Các hiệu thuốc interferon đơn phương trên thị trường hiện nay gồm có: Intron A (hãng Schering-Plough), Roferon A (hãng Roche), Infergen (hãng InterMune, Inc.), Wellferon (Glaxo) và Alferon N (hãng ISI Pharmaceuticals). Tiêu chuẩn quy định chính thức cho interferon là thuốc chích 3 lần mỗi tuần kéo dài ít nhất là một năm. Theo sự phỏng đoán thì chỉ có 10% đến 20% các người có HCV dùng phương pháp điều trị interferon đơn phương diệt được siêu vi HCV vĩnh viễn đến mức không phát hiện được.

Phương pháp interferon phối hợp với ribavirin

Loại thuốc Rebetron (hãng Schering-Plough) là một sự phối hợp giữa loại thuốc interferon đơn phương (hiệu Intron A) và thuốc ribavirin. Các cuộc nghiên cứu cho thấy điều trị bằng cách phối hợp hai loại thuốc có hiệu quả hơn là chỉ dùng thuốc interferon đơn phương. Quy định để sử dụng Rebetron là chích 3,000,000 đơn vị interferon mỗi tuần 3 lần cộng với uống 800-1,200 mg ribavirin hàng ngày. Các cuộc nghiên cứu đề nghị thời hạn chữa trị kéo dài tùy theo loại HCV (genotype): 48 tuần cho HCV loại 1, 24 tuần cho HCV loại 2 hoặc 3. Theo các cuộc thử nghiệm y tế, tỷ lệ trung bình của hiệu quả thuốc đối với siêu vi (sustained virological response) là 28% cho HCV loại 1 và 66% cho HCV loại 2 và 3.

Phương pháp pegylated interferon đơn phương

Peg-Intron

Peg-Intron (peginterferon alpha 2b) là thuốc pegylated interferon (duy trì lâu) do hãng Schering bào chế. Ðây là loại thuốc bột cần phải được pha và hòa chung với một chất lỏng trước khi được chích. Số lượng thuốc tùy vào cân nặng của mỗi người. Khi dùng pegylated interferon đơn phương, hiệu quả thuốc đối với siêu vi là 14% cho HCV loại 1, 47% cho HCV loại 2 & 3.

Pegasys

Pegasys (peginterferon alpha 2a) là thuốc pegylated interferon (duy trì lâu) do hãng Roche bào chế. Liều lượng tiêu chuẩn cho mọi bệnh nhân là 180 µg. Loại thuốc này là dung dịch lỏng đã được pha sẵn. Hiệu quả thuốc đối với siêu vi là 28% cho HCV loại 1, 56% cho HCV loại 2 & 3. Pegasys cũng được chỉ định để chữa cho những người bị xơ gan nhẹ (compensated cirrhosis).

Phương pháp pegylated interferon phối hợp với ribavirin

Phối hợp thuốc pegylated interferon và ribavirin hiện là tiêu chuẩn chữa trị HCV hiện nay. Hiện có 2 cách phối hợp pegylated interferon và ribavirin được FDA phê chuẩn: thuốc pegylated interferon hiệu Peg-Intron của hãng Schering phối hợp với thuốc ribavirin Rebetol, và thuốc pegylated interferon Pegasys của hãng Roche phối hợp với thuốc ribavirin Copegus.

Phương pháp Peg-Intron phối hợp với Rebetol của hãng Schering

Hiệu quả thuốc đối với siêu vi của loại thuốc phối hợp này là 42% cho HCV loại 1 (30% nếu có số siêu vi cao), 82% cho HCV loại 2 & 3. Thời gian chữa trị cho mọi loại HCV là 12 tháng.

Phương pháp Pegasys phối hợp với Copegus của hãng Roche

Hiệu quả thuốc đối với siêu vi của loại thuốc phối hợp này là 46-51% cho HCV loại 1 (41-46% nếu có số siêu vi cao), 76-78% cho HCV loại 2 & 3. Thời gian chữa trị cho HCV loại 1 là 12 tháng; cho HCV loại 2 & 3 là 6 tháng.

Ngoài ra: Việc điều trị viêm gan nói chung và viêm gan C nói riêng chủ yếu là nâng cao thể trạng bằng việc ăn uống hợp lý và bổ dưỡng, nghỉ ngơi, uống các thuốc tăng cường sức đề kháng và cung cấp vitamin. Thuốc tân dược để điều trị có cả thuốc sản xuất trong nước và thuốc nhập ngoại, tùy trường hợp cụ thể các bác sĩ sẽ có chỉ định thích hợp. Lưu ý người bệnh viêm gan virut nên khám và theo dõi sức khỏe định kỳ trong đó chú ý xét nghiệm chức năng gan.

Phán ứng phụ khi sử dụng thuốc

Những phản ứng phụ phổ biến nhất của interferon và ribavirin gồm những triệu chứng giống như bị cúm, nhức bắp thịt và khớp, buồn nôn, nhức đầu, mệt mỏi, ăn không ngon, khô da, lo âu, buồn nản, và mất ngủ. Những triệu chứng liên hệ về thể xác có thể được giảm bớt bằng cách uống ibuprofen hoặc acetaminophen với số lượng thấp (2 grams/ngày hoặc ít hơn). Dùng lượng acetaminophen cao có thể gây hại cho gan. Những người bị lo âu, khó chịu, hoặc buồn nản có thể uống thuốc an thần hoặc thuốc chống buồn nản (trầm cảm). Nên tham khảo với bác sĩ trước khi uống các loại thuốc này. Nếu quý vị chích interferon trước khi đi ngủ, quý vị có thể sẽ không cảm thấy được các phản ứng phụ khi ngủ. Uống nhiều nước có thể giúp giảm cường độ của các phản ứng phụ. Ăn ít và ăn nhiều bữa thay vì ăn no và ít bữa có thể làm giảm các chứng bệnh tiêu hóa. Tập thể dục thường xuyên cũng có thể giảm bớt một số phản ứng phụ của thuốc interferon như mệt mỏi. Thoa kem dưỡng da mỗi ngày sẽ giúp chống lại khô da. Thay đổi chỗ chích để ngừa da bị viêm hoặc nổi đỏ. Ở một số người, các phản ứng phụ cho thể xác thường rất mạnh khi mới bắt đầu dùng thuốc và sẽ giảm dần theo thời gian.

Lý do thông thường nhất khiến việc điều trị viêm gan C phải ngưng lại là anemnia (số lượng hồng huyết cầu thấp), thrombocytopenia (số lượng tiểu huyết cầu thấp), và neutropenia (bạch huyết cầu thấp). Các loại thuốc dùng để kiểm soát các triệu chứng này gồm có erythropoietin (cho hồng huyết cầu thấp), GM-CSF (cho bạch huyết cầu thấp), và IL-interleukin 2 (cho tiểu huyết cầu thấp). Số lượng tiểu huyết cầu thấp có thể là dấu hiệu của xơ gan, cho nên cần lưu ý trong quá trình điều trị.

Khi điều trị bằng interferon, một số người có thể bị rối loạn tuyến giáp trạng. Chức năng hoạt động của tuyến giáp trạng cần phải được theo dõi kỹ lưỡng trước khi bắt đầu điều trị và mỗi 3 tháng trong thời gian điều trị. Tuyến giáp trạng của nhiều người sẽ hoạt động bình thường sau khi ngưng điều trị, nhưng sẽ có một số người mang bệnh tuyến giáp trạng vĩnh viễn và cần dùng thuốc liên tục.

Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo, uống thuốc nên theo chỉ định của bác sĩ.

Theo: hcvadvocate

]]>
https://tuelinh.vn/cach-chua-tri-viem-gan-c-bang-thuoc-10815/feed 0