Tuệ Linh https://tuelinh.vn Tự hào trí tuệ Việt Tue, 10 Sep 2024 08:25:14 +0000 vi hourly 1 Cảnh giác với một số bệnh ngoài da hay gặp ở trẻ nhỏ https://tuelinh.vn/canh-giac-voi-mot-so-benh-ngoai-da-hay-gap-o-tre-nho-12267 https://tuelinh.vn/canh-giac-voi-mot-so-benh-ngoai-da-hay-gap-o-tre-nho-12267#respond Sun, 14 Apr 2013 04:20:22 +0000 https://tuelinh.vn/?p=12267 Da trẻ em rất non nớt và nhạy cảm. Chính vì vậy nếu không được vệ sinh tốt, trẻ rất dễ bị lây nhiễm những bệnh ngoài da từ các yếu tố bên ngoài. Dưới đây là một số bệnh ngoài da hay gặp ở trẻ, cha mẹ cần hết sức lưu ý:

Mẩn ngứa ở trẻ

Mẩn ngứa là một bênh viêm da thường thấy ở trẻ nhỏ. có thể do nhiều nguyên nhân gây ra trong đó có thể kể tới yếu tố thời tiết và yếu tố cơ địa. Thường thì những trẻ 1-2 tháng tuổi đã bắt đầu có biểu hiện mẩn ngứa. Ở một số trẻ thì hiện tượng này sẽ mất dần đi khi trẻ lớn, khoảng 2 tuổi trở lên. Mẩn ngứa chủ yếu xảy ra ở hai má, khiến trẻ thường xuyên phải lắc cọ đầu hoặc dùng 2 tay gãi thật lực. Sau một thời gian, trên má trẻ nổi những nốt mẩn như hạt gạo, sau đó hình thành những mọng nước. Rồi những mọng nước này vỡ ra, chảy nhiều nước vàng, và đóng vảy. Suốt quá trình này, trẻ rất ngứa, thường xuyên quấy khóc, không ăn không ngủ được, ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển thể lực.

Để phòng ngừa các yếu tố gây mẩn ngứa cho trẻ, các bậc cha mẹ cần bảo đảm da trẻ luôn sạch sẽ, tránh bị kích thích, quần áo phải rộng, mềm mại. Tránh một số thực phẩm dễ gây dị ứng như tôm, sò, cua hoặc thức ăn tanh. Nếu trong thời gian đang cho con bú, người mẹ cũng nên kiêng ăn một số loại thức ăn mà bé bị dị ứng.

Nổi mề đay ở trẻ

Nổi mề đay là một bệnh ngoài da phổ biến ở cả trẻ em và người lớn. Biểu hiện của bệnh là những mảng phù màu hồng hoặc đỏ nổi cao trên da mặt, kích thước và số lượng thay đổi khác nhau có thể ở bất cứ vị trí nào trên da, khi mề đay khỏi thường không để lại dấu vết.

có thể do trẻ bị tiếp xúc với một số vật lạ qua da, qua đường hô hấp, do ăn uống, thuốc, mỹ phẩm, côn trùng, ký sinh trùng, vi khuẩn, thời tiết thay đổi … Một số trẻ bị nổi mề đay do di truyền và một số trường hợp không rõ nguyên nhân.

Để điều trị hiệu quả chứng mề đay cho trẻ trước hết phải tìm ra được căn nguyên gây bệnh. Tuỳ vào mức độ và nguyên nhân gây ra, mà bác sỹ điều trị bằng thuốc nam hoặc thuốc tây. Nếu bệnh nặng hoặc xuất hiện thường xuyên, người bệnh phải đi khám ở các cơ sở y tế để có hướng xử trí tốt nhất.

Rôm sảy ở trẻ

Rôm sảy là chứng bệnh về da thường gặp đối với trẻ vào những ngày hè, khi tuyến mồ hôi bị chèn ép, bít kín làm mồ hôi tắc nghẽn, không thoát ra ngoài da. Rôm sảy hay gặp nhất ở trẻ ra mồ hôi nhiều.

Biểu hiện của rôm sảy thường xuất hiện thành đám, thành mảng lớn ở các vùng da bài tiết nhiều mồ hôi như ngực, lưng, trán, nách, bẹn… Một số trường hợp nặng có thể bị gần như toàn thân. Thương tổn là các sẩn màu đỏ hồng, trên có mụn nước nhỏ, đôi khi có mụn mủ trắng xen lẫn. Khi đó, trẻ thường có cảm giác bứt rứt khó chịu, ngứa. Nếu trẻ gãi làm da sây sát sẽ dễ bị bội nhiễm vi khuẩn.

Để phòng ngừa , cha mẹ cần luôn giữ cho da trẻ luôn thoáng mát, cho trẻ mặc những loại quần áo làm bằng chất liệu cotton, có khả năng thấm hút mồ hôi tốt, luôn để trẻ ở nơi thoáng mát, tránh nơi nóng nực ngột ngạt và bí gió, tắm hàng ngày cho trẻ và chú ý chế độ ăn uống cho trẻ …

Thủy đậu ở trẻ

Thủy đậu là một bệnh ngoài da có lây lan. Với những trẻ bệnh thủy đậu, khi nói, ho, hắt hơi, khóc… các virus sẽ phát tán trong không khí. Thậm chí trẻ chỉ cần tiếp xúc với dụng cụ học tập, đồ chơi, quần áo của bạn… có chứa virut gây bệnh là cũng thể bị lây bệnh.

Trẻ bị thủy đậu thường có các triệu chứng chính như là nổi bóng nước (thường xuất hiện rất nhanh và nổi toàn thân). Trẻ nhỏ thường ít kèm theo sốt, trong khi trẻ trên 7 tuổi và người lớn thường kèm theo sốt cao, mệt mỏi, biếng ăn. Các nốt bóng nước này thường nổi từng đợt, xen kẽ bóng nước cũ và bóng nước mới.

Thủy đậu thường không gây ra những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng ở trẻ. Đặc biệt, nếu đã bị 1 lần thì thường sẽ không bị nữa. Hầu hết trẻ chỉ cần điều trị ở nhà như nghỉ ngơi, uống thuốc để giảm ngứa, sốt hay những triệu chứng khác như bệnh cúm.

Chủng ngừa bằng vắc-xin là biện pháp hữu hiệu giúp ngăn ngừa bệnh và giảm độ nặng của bệnh. Tiêm ngừa 2 liều để trẻ được bảo vệ tốt nhất. Hai liều vắc-xin thủy đậu là cần thiết cho trẻ.

Chóc lở ở trẻ

Chóc lở ở trẻ xuất hiện kèm theo những bóng nước hình tròn, dẹp, sau vài giờ, bóng nước đục dần, có mủ rồi vỡ, đóng vảy màu vàng. Đây là do sự nhiễm khuẩn da nguyên phát do liên cầu khuẩn hoặc vi khuẩn tụ cầu gây ra. Tổn thương thường xuất hiện ở vùng đầu, mặt, cổ. Chốc có thể lan sang vùng kế cận, gây viêm hạch bạch huyết gần đó. Sau khi bong vảy, thường để lại vết thâm lâu dài.

Ngọc Huế (st) 

 

]]>
https://tuelinh.vn/canh-giac-voi-mot-so-benh-ngoai-da-hay-gap-o-tre-nho-12267/feed 0
Bệnh zona https://tuelinh.vn/benh-zona-1201 https://tuelinh.vn/benh-zona-1201#respond Thu, 25 Aug 2011 03:33:24 +0000 https://tuelinh.vn/?p=1201

Bệnh Zona – trong dân gian gọi là “giời leo” – là một bệnh do siêu vi rút gây ra, tấn công chủ yếu lên da và các dây thần kinh ở vùng da đó. Mọi lứa tuổi cả nam lẫn nữ đều có thể mắc bệnh. Bệnh khởi phát đột ngột, diễn tiến cấp tính và tự lành, chỉ một số ít trường hợp nặng, xảy ra biến chứng mới cần phải điều trị. Bệnh thường gặp vào mùa xuân – thu và mọi lứa tuổi (trừ trẻ sơ sinh), nhưng xảy ra ở người lớn nhiều hơn (3/4 số bệnh nhân zona trên 45 tuổi), đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch (8-11% bệnh nhân nhiễm HIV bị zona).

Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh zona gây ra bởi virus thủy đậu VZV (Varicella zoster virus), loại virus hướng da thần kinh. Bệnh thủy đậu xuất hiện ở người bị nhiễm VZV lần đầu, bệnh zona xuất hiện ở người từng bị nhiễm VZV (VZV tồn tại trong rễ hạch thần kinh), tái hoạt khi có điều kiện thuận lợi như chấn thương thần kinh hoặc thể chất, có thai, điều trị phóng xạ, suy giảm miễn dịch… Nhiều tác giả cho rằng zona là hiện tượng tái hoạt của VZV tiềm ẩn.

Dịch tễ học

Trên 90% người lớn ở Hoa Kỳ có chứng cứ huyết thanh của việc nhiễm VZV và đều có nguy cơ bị zona (Choo PW et al., 1995). Số mắc mới hàng năm của zona vào khoảng 1,5-3 trường hợp/1000 người (Donahue JG, 1995; Ragozzino MW et al., 1982). Tuổi đời tăng là yếu tố nguy cơ chủ chốt của bệnh zona, số trường hợp mắc mới của zona ở những người trên 75 tuổi vượt quá 10 trường hợp/1000 người/năm. Nguy cơ mắc zona trong suốt cuộc sống ước tính là 10-20% (Ragozzino MW et al., 1982).

Các nhà nghiên cứu của Mayo Clinic (Rochester, Minnesota, Hoa Kỳ) đã phân tích lại hồ sơ bệnh án của 1669 bệnh nhân zona từ 22 tuổi ở Olmsted county, Minesota từ năm 1996-2001. Kết quả ghi nhận có 95 bệnh nhân bị zona tái phát, trong đó 87 người tái phát hơn 1 lần. Đa số trường hợp tái phát đều xảy ra ở những người có hệ miễn dịch hoàn chỉnh. Như vậy, tỉ lệ zona tái phát trong gần tám năm theo dõi là 6,2%. Nghiên cứu này cho thấy ngay cả đối với người có hệ miễn dịch hoàn chỉnh nhưng có tiền sử bệnh zona, nguy cơ tái phát bệnh này vẫn xảy ra với một tỉ lệ khá cao, tương đương tỉ lệ mắc zona lần đầu tiên. Do đó, các tác giả khuyến cáo nên chủng ngừa zona cho cả những người đã bị zona. Zona là một bệnh không lây, tuy nhiên người chưa từng bị thủy đậu hay chưa được chủng ngừa thủy đậu có thể bị thủy đậu khi tiếp xúc với bệnh nhân zona. Trẻ em được chủng ngừa thủy đậu đầy đủ lúc nhỏ sẽ không bị thủy đậu, sau đó không lo bị zona về sau. Năm 2006, Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận cho lưu hành Zostavax, thuốc chủng ngừa zona dùng cho những người từ 60 tuổi trở lên.

Triệu chứng lâm sàng

Trước khi tổn thương mọc 2-3 ngày thường có cảm giác báo hiệu như: rát dấm dứt, đau vùng sắp mọc tổn thương kèm theo triệu chứng toàn thân hoặc ít hoặc nhiều như mệt mỏi, đau đầu… Hạch ngoại vi lân cận có thể sưng và đau

  • Vị trí: thường khu trú tập trung ở những vị trí đặc biệt và chỉ có một bên của cơ thể dọc theo các đường dây thần kinh, nhưng cá biệt có thể bị cả hai bên hay lan tỏa.
  • Tổn thương cơ bản: thường bắt đầu là các mảng đỏ, nề nhẹ, gờ cao hơn mặt da, hình tròn, bầu dục lần lượt nổi dọc dây thần kinh, rải rác hoặc cụm lại thành dải, thành vệt, sau 1-2 giờ trên mảng đỏ xuất hiện những mụn nước chứa dịch trong, căng khó vỡ, các mụn nước tập trung thành cụm (như chùm nho), về sau đục, vỡ, xẹp để lại sẹo (nếu nhiễm khuẩn). Trước hoặc cùng với mọc tổn thương ở da thường nổi hạch sưng và đau ở vùng tương ứng và là dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán.

Các thể lâm sàng

  • Zona liên sườn và ngực bụng thường nửa người có khi lan xuống một bên cánh tay (ngực, cánh tay).
  • Zona cổ (đám rối cổ nông) và cổ cánh tay có tổn thương ở cổ, vai, mặt ngoài chi trên.
  • Zona gáy cổ: có tổn thương ở gáy, da đầu, vành tai.
  • Zona mắt (nhánh mắt của dây thần kinh III) gây tổn thương ở trán, mi trên dọc trong mắt, cánh mũi, kể cả niêm mạc mũi… đặc biệt nghiêm trọng có thể gây biến chứng mắt từ viêm màng tiếp hợp gây chảy nước mắt đến viêm giác mạc, viêm mống mắt dẫn đến loét giác mạc, rối loạn đồng tử, teo gai… Zona này rất đau có thể để lại sẹo quanh hốc mắt dai dẳng.
  • Zona hàm trên và dưới ngoài vùng da tương ứng còn có cả tổn thương niêm mạc miệng, họng.
  • Zona hạch gối (Ramsay Hant) có tổn thương ở vành tai, kèm theo rối loạn cảm giác 2/3 trước lưỡi, rối loạn nghe, đôi khi liệt mặt một bên, nhức và đau nhưng thoáng qua.
  • Zona đầu: tổn thương nhiều dây thần kinh sọ não, hạch não tủy, có khi tổn thương cả não.
  • Đôi khi gặp zona hông, bụng, sinh dục, bẹn, xương cùng, đùi, cánh tay.
  • Đối với thần kinh sọ não: hay bị nhất là ở dây III.

Chẩn đoán

Biểu hiện da của Zona đủ rõ để có chẩn đoán lâm sàng thường là chính xác. Tuy nhiên vị trí hoặc hình dạng của các tổn thương ngoài da có thể không điển hình (đặc biệt ở những bệnh nhân có hệ miễn dịch bị suy giảm), khi đó cần có sự xác định của các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Có thể nuôi cấy virus, nhưng VZV yếu và tương đối khó hồi phục từ các mẫu bệnh phẩm của những tổn thương ở da. Định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp nhạy cảm hơn nuôi cấy virus, chi phí thấp hơn và có thời gian trả lời kết quả xét nghiệm nhanh hơn. Giống như nuôi cấy virus, định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể phân biệt giữa nhiễm virus Herpes Simplex và nhiễm virus Varicella Zoster. Kỹ thuật phản ứng khuếch đại chuỗi gen bằng enzym polymerase có ích trong việc tìm DNA của VZV trong dịch và các mô.

Biến chứng

  • Đau dây thần kinh sau zona (được định nghĩa là đau tồn tại trên 30 ngày sau khi nổi phát ban hoặc sau khi liền sẹo): là biến chứng đáng sợ nhất đối với những bệnh nhân có chức năng miễn dịch đầy đủ. Tỉ lệ khởi phát của đau dây thần kinh sau zona từ 8-70% và tăng khi tuổi đời càng cao. Bên trong vùng khoanh da bị tổn thương ngoài đau dây thần kinh ra, bệnh nhân còn có nhiều bất thường về cảm giác, ví dụ như dị giác (một thể tăng cảm giác trong đó một kích thích không đau được nhận biết như đau)
  • Các biến chứng khác: viêm não, viêm tủy, liệt dây thần kinh sọ não, dây thần kinh ngoại biên, hội chứng liệt nhẹ nửa người phía đối diện muộn, hoại tử võng mạc cấp tính.

Điều trị

Mục tiêu: đẩy nhanh việc liền sẹo, hạn chế độ nặng và thời gian kéo dài đau cấp tính và mạn tính, giảm biến chứng. Ở những bệnh nhân bị tổn thương miễn dịch, thêm một mục tiêu điều trị nữa là giảm nguy cơ lan tỏa virus Varicella Zoster.

Tùy thuộc vào giai đoạn, mức độ thể trạng người bệnh mà dùng thuốc cho thích hợp

  • Tại chỗ: hồ nước, dung dịch xanh methylen, cestellani timethyl nếu có nhiễm khuẩn, mỡ kháng sinh…
  • Toàn thân:

+ Liệu pháp kháng virus

Tại Mỹ có 3 dược chất được chấp thuận sử dụng trong điều trị zona là acyclovir, valacyclovir, famciclovir. Liệu pháp kháng virus đường uống khuyến nghị cho zona ở người lớn có chức năng miễn dịch và chức năng thận bình thường

Liều dùng: Acyclovir 800 mg mỗi 4 giờ (5 lần mỗi ngày) trong 7-10 ngày

Famciclovir 500 mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày

Valacyclovir 1000 mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày

+ Corticosteroid

Sử dụng kết hợp corticosteroid với các thuốc kháng virus làm tăng tốc độ lành da, giảm nhẹ cơn đau cấp tính, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên liệu pháp corticosteroid không nên sử dụng ở những bệnh nhân có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi độc tính do corticosteroid (ví dụ những BN tiểu đường hoặc viêm dạ dày).

+ Kháng sinh nếu có bội nhiễm

+ Sinh tố nhóm B liều cao

+ Có thể cần thuốc chẹn giao cảm để làm dịu tạm thời cơn đau nặng. Với các cơn đau dai dẳng, các thuốc giảm đau trung ương (opioid) tác dụng dài, giải phóng có kiểm soát (uống hoặc dán lên da) được ưa chuộng hơn.

 

]]>
https://tuelinh.vn/benh-zona-1201/feed 0